DetailController

Nông, Lâm, Ngư Nghiệp

Hỗ trợ tiêu thụ nông sản- cơ sở phát triển nông nghiệp bền vững

13/03/2020 00:00
Sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 13/11/2014 của BTV Tỉnh ủy về cơ chế hỗ trợ tiêu thụ nông sản hàng hóa trên địa bàn, nông sản hàng hóa chủ lực của tỉnh không bị tồn và dư thừa, sản lượng tăng mạnh song giá bán không giảm nhiều. Đặc biệt là những nông sản lợi thế của tỉnh như cam, bưởi, nhãn, su su, tỏi tía, rau hữu cơ, mía tím, lợn bản địa, gà đồi, cá lồng hồ Hòa Bình đã tiếp cận được thị trường ngoại tỉnh đặc biệt là thủ đô Hà Nội, được người tiêu dùng đánh giá cao.
Việc thực hiện tốt chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm giúp người nông dân yên tâm sản xuất và mở rộng vùng sản xuất

Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 14, UBND tỉnh đã ban hành thực hiện hỗ trợ theo Quyết định số 33/2015 và Quyết định số 53/2016, đến nay đã bố trí được 3,4 tỷ đồng để hỗ trợ tiêu thụ hơn 1 vạn tấn nông sản đi các thị trường ngoài tỉnh. Số doanh nghiệp tham gia tiêu thụ nông sản ra ngoài tỉnh ngày càng tăng. Hình thức tiêu thụ nông sản ngày càng đa dạng, đặc biệt là gắn kết giữa phát triển du lịch với quảng bá và tiêu thụ nông sản. Lượng nông sản được tiêu thụ tăng thông qua các hình thức bán hàng trên không gian mạng, gửi hàng qua xe….đây là hình thức tiêu thụ mới của các doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân ứng dụng ngày càng phát huy hiệu quả. Tính đến tháng 5/2019 đã có 210 HTX nông nghiệp được thành lập và chuyển đổi theo Luật HTX, 2.005 tổ hợp tác, nhóm liên kết sản xuất, 14 trang trại tham gia sản xuất kinh doanh sản phẩm cây ăn quả có múi, rau an toàn. Việc hình thành các HTX, tổ hợp tác, nhóm liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đã góp phần giải quyết được sản phẩm tồn đọng, giảm nhiều hiện tượng thương lái ép giá, giúp khuyến khích phát triển sản xuất, phát triển thương hiệu sản phẩm mỗi vùng địa phương. Tỷ lệ tiêu thụ thông qua hợp đồng tăng khá mạnh, đạt trên 30%, đặc biệt là đối với sản phẩm cây có múi. Việc tiêu thụ nông sản thuận lợi cũng góp phần thúc đẩy hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung như vùng cam, vùng bưởi, vùng mía, vùng nuôi cá lồng.

Có được thành công trên là nhờ ngay từ đầu các cấp ủy đảng, chính quyền đã nhận thức đúng đắn và sớm triển khai thực hiện, thông tin tuyên truyền nội dung Nghị quyết và chính sách phát triển và tiêu thụ nông sản cho nhân dân. Thực hiện tốt việc lồng ghép các nguồn lực phát triển nông sản chủ lực tại địa phương đồng thời thúc đẩy đa dạng việc tiêu thụ nông sản thông qua các kênh và hình thức tiêu thụ khác nhau. Nhiều dự án liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị được xây dựng và triển khai thực hiện với sự tham gia của các doanh nghiệp ngoài tỉnh, hợp tác xã và người sản xuất đã tạo ra chuỗi khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản.

Việc chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ; giới thiệu, định hướng sản xuất bằng các giống năng suất cao, chất lượng tốt luôn được quan tâm, chú trọng thực hiện từng bước tạo ra các sản phẩm nông lâm sản có chất lượng tốt, giá trị sản phẩm từng bước được nâng lên.

Việc xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm và xúc tiến thương mại, đưa nông sản hàng hóa lên sàn giao dịch, đặc biệt là thị trường thành phố Hà Nội và các tỉnh thành lân cận được quan tâm thực hiện đã góp phần đẩy mạnh tiêu thụ nông sản, hạn chế tình trạng ùn ứ, dư thừa sản phẩm nông sản sau thu hoạch. Hình thành trung tâm giới thiệu, mua và phân phối sản phẩm sau thu hoạch tại trung tâm các huyện và tỉnh. Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh sản phẩm luôn được quan tâm thực hiện góp phần hạn chế các hành vi giả mạo sản phẩm, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm đối với những tổ chức, cá nhân có hành vi trái với quy định của pháp luật góp phần bảo vệ uy tín cho thương hiệu sản phẩm của nông sản địa phương, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng.

Tuy nhiên nhìn chung nông sản hàng hóa trên địa bàn tỉnh còn thiếu đồng nhất, quy mô và số lượng lớn, sản phẩm hàng hóa ít, khó giữ được vùng nguyên liệu ổn định khi giá cả thị trường biến động; ý thức sản xuất của người dân một số vùng còn mang tính sản xuất nhỏ và còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước.

Nhiệm vụ thời gian tới, tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 14-NQ/TU thông qua việc xây dựng và thực hiện Nghị quyết về nông nghiệp đến năm 2025. Trong đó tập trung: Tích hợp các quy hoạch ngành, sản phẩm vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, quy hoạch ngành, khu vực; quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch; bố trí nguồn lực thực hiện các Dự án trong quy hoạch được phê duyệt. Mở rộng quy mô sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và giá trị cao theo 3 trục: sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm chủ lực cấp tỉnh và sản phẩm địa phương theo Chương trình OCOP. Làm tốt công tác tuyên truyền vận động để người dân thay đổi tư duy canh tác theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, đảm bảo an toàn gắn với bảo vệ môi trường môi trường. Khuyến khích doanh nghiệp liên kết, ký hợp đồng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Tăng cường công tác phối hợp giữa các sở, ban, ngành, địa phương trong việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nông nghiệp nhằm hỗ trợ người sản xuất trong việc tìm kiếm đầu ra của sản phẩm./.