Ông Nguyễn Hồng Yến, Chi cục Phó Chi cục BVTV tỉnh cho biết, hiện nay trên địa bàn tỉnh lúa đông xuân đang bị sâu, bệnh gây hại với diện tích khoảng 343,5 ha ở mức độ nhẹ và trung bình. Trong đó bọ xít đen gây hại với diện tích 300 ha, chuột gây hại với diện tích 29 ha...Điều đáng nói làbệnh đạo ôn xuất hiện trên giống nhiễm, vùng ổ bệnh cũ, tỷ lệ hại phổ biến 0,5 -1 % số lá ở TP. Hòa Bình, nơi cao 15-20% số lá như huyện Lạc Sơn; bệnh nghẹt rễ lúa hại rải rác, tỷ lệ hại phổ biến 2-3% số khóm ở huyện Tân lạc và Lạc Thủy, cao 15-20% số khóm ở huyện Mai Châu; chuột hại tỷ lệ phổ biến 1-3% số dảnh, cao 5-7% số dảnh ở huyện Kỳ Sơn và Lạc Thủy. Bên cạnh đó, tập đoàn rầy, mật độ phổ biến 30-50con/m2, nơi cao 100-200 con/m2 xuất hiện ở huyện Kỳ Sơn, Lạc Thủy, Lạc Sơn và Mai Châu; ốc bươu vàng mật độ trung bình 0,3-0,5 con/m2, cao 1-2 con/m2 ở huyện Đà Bắc và Lạc Sơn; bọ trĩ mật độ trung bình 20-30 con/m2, nơi cao mật độ 80-100 con/m2 ở huyện Lạc Sơn và Mai Châu; ruồi đục nõn, tỷ lệ hại phổ biến 3-5% số dảnh, cao tỷ lệ hại 10-15% số dảnh ở huyện Kỳ Sơn và Tân Lạc; bọ xít đen mật độ trung bình 3-5 con/m2 ở huyện Kim Bôi và Mai Châu, nơi cao 7-15 con/m2 huyện Lạc Sơn; sâu cuốn lá nhỏ mật độ trung bình 1-2c/m2 ở huyện Lạc Thủy và Cao Phong.
Để hạn chế các đối tượng gây hại, đặc biệt là bệnh đạo ôn làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng lúa đông xuân, Chi cục BVTV tỉnh khuyến cáo theo dự báo tình hình thời tiết từ nay tới cuối tháng 4 vì còn diễn biến phức tạp, nhiều ngày trời âm u, có mưa nhỏ, đêm và sáng sớm trời lạnh, nhiều sương mù. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho bệnh đạo ôn phát sinh gây hại. Hiện bệnh đạo ôn lá đã xuất hiện gây hại từ cuối tháng 3, trên các vùng ổ bệnh cũ, giống nhiễm (BC15, Khang dân, nếp, Q5, Tẻ thơm), giai đoạn cuối đẻ nhánh - đứng cái, tỷ lệ bệnh phổ biến 1-3% số lá, cao 7-10% số lá. Với điều kiện thời tiết thuận lợi, cây lúa ở giai đoạn mẫn cảm, bệnh đạo ôn lá sẽ tiếp tục phát sinh, lây lan mạnh trên các trà lúa, giống nhiễm, gây hại nặng từng chòm hay cả ruộng lúa. Đây là nguồn nấm bệnh lây nhiễm đạo ôn cổ bông cho diện tích lúa trỗ cuối tháng 4 đầu tháng5. Vì vậy, các ngành chức năng và bà con nông dân thống kê diện tích, nguồn giống, vùng phân bố của các giống lúa nhiễm bệnh đạo ôn (BC15; Khang dân 18; nếp, CR203, DT10, Nhị ưu 838, D.ưu 527,…); phân công địa bàn cho các cán bộ, tăng cường bám sát đồng ruộng, thường xuyên điều tra, phát hiện tại các vùng ổ bệnh cũ, các vùng cấy giống nhiễm; phát huy vai trò của đội ngũ khuyến nông viên, các tổ dịch vụ bảo vệ thực vật trong việc tuyên truyền, phổ biến đặc điểm triệu chứng bệnh đạo ôn; hướng dẫn các biện pháp phòng trừ kịp thời, hiệu quả đến nông dân. Đặc biệt chú ý khuyến cáo nông dân không vội vàng mua và sử dụng thuốc hóa học khi chưa chắc chắn đó là bệnh đạo ôn, tránh tình trạng sử dụng không đúng thuốc; thông tin cho hệ thống kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật chủ động cung ứng kịp thời chủng loại thuốc phù hợp để phòng trừ bệnh đạo ôn.
Đối với những ruộng xuất hiện bệnh cần giữ đủ nước, tạm dừng bón đạm hay phun thuốc kích thích sinh trưởng, phân bón lá. Sử dụng thuốc đặc trị xử lý ngay các ổ bệnh mới phát sinh, không để lây lan diện rộng (thuốc Hinosan 40EC; New Hinosan 30EC; Fujione; 50EC; Đạo ôn linh; 40 EC; Beam 75WP; Fu-Army 40EC, 30 WP; Bamy 75WP; Trizole 20WP; Kasai 21.2 WP, 16.2 SC; Rabcide 20 SC, 30WP...). Phun theo nồng độ khuyến cáo trên bao bì. Những ruộng bệnh nặng phải phun kép 2 lần, cách nhau 5-7 ngày. Nếu trong khoảng 24 giờ sau phun gặp mưa phải phun lại; tại những khu vực đã xuất hiện đạo ôn lá, cần chủ động phòng đạo ôn cổ bông (phun kép 2 lần, lần 1 khi lúa bắt đầu trỗ, lần 2 nhắc lại sau 5-7 ngày).
Ngoài ra, các đối tượng gây hại lúa đông xuân khác theo dự báo như rầy cám lứa 2 tiếp tục tăng mật độ và diện phân bố trên trà sớm và chính vụ, giống nhiễm rầy. Đây cũng là lứa rầy truyền bệnh virus nguy hiểm nhất cho trà chính vụ và muộn giai đoạn đứng cái - phân hóa đòng, cần chú ý lứa rầy này; sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân, bọ trĩ, dòi đục nõn tiếp tục xuất hiện gây hại trên các trà lúa giai đoạn cuối đẻ nhánh - đứng cái; bệnh bạc lá và đốm sọc vi khuẩn tiếp tục xuất hiện, lây lan và gây hại mạnh trên các giống lai, Khang dân, CR203,... đặc biệt là sau những trận mưa dông, những ruộng lúa xanh đậm, bón nhiều đạm, bón đạm muộn; bệnh khô vằn tiếp tục xuất hiện trên trà sớm và chính vụ, giống nhiễm, những ruộng cấy dày, bón phân không cân đối, bón đạm muộn; bệnh virus (lùn sọc đen, vàng lùn, lùn xoắn lá) có thể xuất hiện trên lúa trà sớm và chính vụ, những ruộng cấy mạ đã bị nhiễm virus. Cần đặc biệt chú ý trên các giống nhiễm (Nhị ưu 838, BC15, TH3-3, TH3-4, Khang dân, Q5, Bắc thơm, Hương thơm), vùng ổ bệnh cũ; bệnh nghẹt rễ, bệnh đốm nâu tiêm lửa, vàng lá sinh lý tiếp tục hại trên những chân ruộng chua, ruộng thiếu lân, chăm sóc kém. Bọ trĩ, dòi đục nõn hại tăng trên trà lúa xuân muộn giai đoạn đẻ nhánh rộ; chuột hại tăng trên lúa giai đoạn đứng cái - phân hóa đòng. Ngoài ra chúng còn hại trên các cây trồng cạn.
Do vậy, bà con nông dân và các Trạm BVTV 11 huyện, thành phố cần nắm bắt chắc diện tích và cơ cấu cây trồng; theo dõi các đối tượng sâu bệnh xuất hiện trên lúa (cần chú ý sự di trú của rầy, vũ hoá của sâu đục thân, sâu cuốn lá nhỏ, bệnh đạo ôn, chuột hại...), sâu bệnh trên cây trồng cạn. Chỉ đạo phòng trừ kịp thời những nơi có mật độ sâu, tỷ lệ bệnh cao; duy trì hệ thống bẫy đèn phục vụ cho công tác dự tính dự báo dịch hại cây trồng; đẩy mạnh chiến dịch diệt trừ chuột...