Sáng ngày 05/11, Quốc hội nghe Tờ trình về Dự án Luật bầu của đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Báo cáo thẩm tra Dự án Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dạy nghề. Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Thanh Hải, Đoàn Hòa Bình đóng góp vào một số nội dung cụ thể đó là:
Thứ nhất: Về mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp được quy định tại Điều 4, theo các số liệu trong báo cáo tổng kết về công tác dạy nghề của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thì tại các cuộc thi tay nghề giữa các nước trong khối ASEAN được tổ chức 2 năm 1 lần từ 1995 đến nay, đoàn Việt Nam luôn đạt thành tích rất cao. Ví dụ năm 2014 vừa qua cuộc thi tay nghề ASEAN lần thứ 10 được tổ chức từ 23 đến 28 tháng 10 tại Hà Nội với chủ đề "Kỹ năng nghề, giá trị đích thực của chúng ta", đoàn Việt Nam đoạt giải nhất với 15 huy chương vàng. Tiếp theo là Malaysia 9 huy chương vàng, Indonesia 8 huy chương vàng, sau đó mới tới Singapore 4 huy chương vàng và Thái Lan 3 huy chương vàng. Đây là lần thứ 3 đoàn Việt Nam đoạt giải nhất toàn đoàn với các năm là 2004, 2006 và 2014. Từ kết quả trên có thể nhận thấy công tác đào tạo nghề cũng như trình độ nguồn nhân lực của chúng ta rất có tiềm năng và hoàn toàn có thể so sánh với các nước trong khu vực. Theo tôi kết quả của các cuộc thi ít nhiều phản ánh trình độ tay nghề cũng như kỹ năng của nguồn nhân lực đối với các nước tham gia. Tuy nhiên, có một nghịch lý như sau: Mặc dù chúng ta luôn vượt lên trên Singapore, Malaysia, Thái Lan tại các cuộc thi tay nghề, nhưng theo các số liệu trong một nghiên cứu của tổ chức ILO năm 2013 thì năng suất lao động của người Việt Nam kém người Singapore 15 lần, kém người Malaysia 5 lần và chỉ bằng 2/5 năng suất lao động khi so sánh với người Thái Lan. Theo tôi đây là một vấn đề hết sức đáng quan tâm. Có thể đưa ra nhận định rằng, năng suất lao động, chất lượng lao động của người Việt Nam hiện nay là chưa tương xứng với tiềm năng của con người Việt Nam hay không? Theo tôi vấn đề này có rất nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân chính quan trọng, đó là mục tiêu đối với dạy nghề, đối với giáo dục nghề nghiệp của chúng ta đặt ra có lẽ còn chưa thực sự phù hợp với thực tiễn khách quan của Việt Nam. Chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động về tay nghề cũng như các kỹ năng mềm khác, cũng như là cơ cấu đào tạo ngành nghề trình độ chưa hợp lý. Có thể nói, việc tăng năng suất lao động đối với nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của toàn xã hội cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc tăng năng suất lao động không chỉ là kỳ vọng của tôi mà sẽ là kỳ vọng của tất cả các đại biểu Quốc hội và các cử tri đối với việc sửa đổi luật lần này. Vì vậy, tôi đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung vào Điều 4, mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp một nội dung liên quan tới mục tiêu tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng lao động dịch vụ của người Việt Nam trong công tác giáo dục nghề nghiệp.
Thứ hai: Về chính sách của nhà nước đối với việc phát triển giáo dục nghề nghiệp được quy định tại Điều 6 của dự thảo luật và chính sách đối với người học được quy định tại Điều 63. Dự thảo luật đã đề cập đến một số chính sách để phát triển giáo dục nghề nghiệp, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến các chính sách cho người học để thu hút được người học đến với học nghề, như các chính sách miễn, giảm học phí, cơ chế dạy nghề mở, linh hoạt, đa dạng, vừa học, vừa làm, hình thức học tập đa dạng, chính quy, thường xuyên, nội dung học tập phong phú, vừa học nghề, vừa học văn hóa v.v... Tuy nhiên, theo tôi những chính sách này còn chưa đủ mạnh, chưa sát với đặc điểm, tính chất của dạy nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay. Do vậy, ngoài các cơ chế, chính sách nêu trên để nâng cao hiệu quả của giáo dục dạy nghề, của đào tạo nghề thì theo tôi cần mở rộng phạm vi điều chỉnh, bổ sung các chính sách đối với người học sau khi tốt nghiệp các trường nghề, như các chính sách về tạo việc làm, về tuyển dụng. Vì vậy, tôi đề nghị bổ sung vào hệ thống các chính sách của nhà nước về phát triển giáo dục nghề nghiệp một nội dung có liên quan tới vấn đề vị trí việc làm, chính sách tuyển dụng đối với các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước cụ thể như sau:
Hiện nay, có một thực trạng là rất nhiều vị trí làm việc tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc khối nhà nước, mặc dù theo tiêu chuẩn quy định về năng lực, kỹ năng, bằng cấp đối với người lao động tại vị trí việc làm đó chỉ quy định ở mức trình độ trung cấp là có thể đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu vị trí của việc làm đó. Nhưng các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước trong tuyển dụng luôn có xu hướng ưu tiên tuyển dụng những người có trình độ cao hơn như cao đẳng, đại học, thậm chí là cao hơn nữa để làm tại vị trí công tác mà không cần đến trình độ này. Ví dụ, tại một trường trung học cơ sở mà tôi đã đi giám sát tại một huyện miền núi, với quy mô của nhà trường thì tổng thu, chi 1 năm chỉ khoảng 500 triệu, vậy chỉ cần 1 người tốt nghiệp trung cấp tài chính kế toán có thể đảm đương được việc hạch toán thu chi. Nhưng khi nhà trường cần tuyển dụng vị trí việc làm này thì đã có hàng chục đơn xin việc của các cử nhân kế toán, vậy là không còn cơ hội cho những người học viên tốt nghiệp các trường trung cấp nghề phù hợp. Những ví dụ như thế, có thể nói rằng không hề hiếm trong xã hội ta hiện nay. Việc tuyển dụng như vậy cho thấy một sự lãng phí lớn về kinh phí ngân sách trong công tác đào tạo. Đồng thời thực tế cho thấy chưa chắc một người đào tạo trình độ đại học đã hoàn thành tốt nhiệm vụ tại vị trí, việc làm của một người có trình độ trung cấp. Trước một thực tế là cánh cửa của trường đại học ngày một rộng mở, với nhiều hệ đào tạo, nhiều loại hình, tạo cơ hội tốt nhất để mọi người có thể đến với giảng đường đại học, nên cơ hội tìm kiếm việc làm đối với những người tốt nghiệp các trường nghề sẽ càng khó khăn hơn. Vì các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước đều có xu hướng tuyển dụng như trên. Như một vòng luẩn quẩn, do chính sách tuyển dụng như vậy mà số người đến với học nghề ngày càng ít, số người vào đại học ngày càng tăng, bất chấp các chính sách ưu đãi, thu hút phân luồng đối với học nghề. Cá nhân tôi thấy xu hướng tuyển dụng của các cơ quan, nhà nước, doanh nghiệp như vậy sẽ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực lên chủ trương phân luồng, chủ trương khuyến khích học nghề của chúng ta. Gây ra một tâm lý lo lắng, thất vọng cho người dân khi đăng ký theo học hệ trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp. Đặc biệt những người theo học các hệ này luôn có tâm lý không yên tâm để trau dồi kỹ năng và luôn có tâm lý muốn học liên thông ở trình độ cao hơn với hy vọng tìm được việc làm. Vậy vấn đề đặt ra chúng ta cần xây dựng những chính sách học nghề như thế nào đó, sao cho người dân phải tự giác học nghề, say sưa với học nghề, tương tự như với mục tiêu vào đại học hiện nay. Thực tế các chính sách dạy nghề cũng như các giải pháp dạy nghề của chúng ta như đang được quy định trong dự thảo luật còn chưa hấp dẫn và chưa đủ sức thuyết phục đối với xã hội.
Với những phân tích như trên, tôi đánh giá đây là một trong những nguyên nhân lớn gây ra hiện tượng thừa thầy, thiếu thợ, hiện tượng không thu hút được người tài, người giỏi đến với học nghề, hiện tượng năng suất lao động, chất lượng lao động nghề của chúng ta thấp khi so sánh với các trường trong khu vực. Vì vậy, tôi kính mong Ban soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc bổ sung thêm nội dung liên quan tới chủ trương tuyển dụng vào trong dự thảo./.