Sáng ngày 18/3/2011, tại Hà Nội, Bộ TT&TT đã tổ chức Hội nghị “Các cơ sở đào tạo về CNTT-TT với nhiệm vụ triển khai đề án Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT”. Bộ trưởng Bộ TT&TT Lê Doãn Hợp, Thứ trưởng Trần Đức Lai, lãnh đạo đại diện các cơ sở đào tạo về CNTT-TT đã tham dự hội nghị.
Mở đầu hội nghị, Thứ trưởng Trần Đức Lai đã trình bày báo cáo Đề án nước mạnh về CNTT, thực trạng, nhu cầu và một số kiến nghị phát triển nguồn nhân lực CNTT Việt Nam trong thời gian tới. Đề án này được Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt ngày 22/9/2010. Mục tiêu tổng quát của đề án là phát triển nguồn nhân lực CNTT đạt tiêu chuẩn quốc tế, xây dựng công nghiệp CNTT trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, ứng dụng hiệu quả CNTT trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh.
Quy mô đào tạo nguồn nhân lực CNTT hiện nay ngày càng lớn, số lượng các trường có đào tạo CNTT tăng dần đến 2009 là 271 trường, trong 7 năm từ 2006-2012 cho ra trường hơn 273 ngàn sinh viên CNTT. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, khả năng giao tiếp ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh còn kém, kỹ năng phần mềm như trình bày, làm việc nhóm còn thiếu; thiếu kiến thức, khả năng tư duy và làm việc độc lập.
Nhu cầu nguồn nhân lực CNTT trong thời gian tới vẫn tiếp tục tăng. Theo dự báo từ nay đến năm 2015 cần bổ sung cho các doanh nghiệp CNTT 334 ngàn người trong đó 73% là trình độ chuyên môn về CNTT, điện tử, viễn thông. Ở khu vực ứng dụng CNTT cần bổ sung thêm 536 ngàn người. Theo số liệu của Hội nghị đào tạo CNTT quốc tế thì đến 2020 thế giới thiếu 10 triệu lao động có trình độ đại học CNTT. Những thống kê trên cho thấy thế giới đang thiếu hụt nhân lực CNTT và đây là một cơ hội cho Việt Nam tham gia thị trường lao động CNTT quốc tế.
Đại điện các trường đào tạo CNTT đã phát biểu tham luận về thực trạng đào tạo và một số kiến nghị để phát triển nguồn nhân lực CNTT. Ông Lê Trường Tùng, Hiệu trưởng Đại học FPT đề xuất nên quản lý nhà nước về đào tạo CNTT như quản lý một ngành dịch vụ đa thành phần chứ không phải như một dạng dịch vụ công, một dạng phúc lợi xã hội; rà soát và gỡ bỏ nhanh các rào cản mang tính phi thị trường nhằm tăng cường xã hội hóa, thu hút đầu tư, phát triển và mở rộng hệ thống đào tạo nhân lực CNTT-TT. Nên có ưu đãi tài chính như: tín dụng sinh viên CNTT-TT theo mô hình kích cầu, hỗ trợ một phần học phí cho sinh viên; có chính sách thuế ưu đãi, vay vốn kích cầu cho nhà đầu tư đào tạo CNTT; giảm thuế thu nhập cá nhân 50% cho nhà giáo CNTT và người làm trong ngành. Ông Tùng cũng đề nghị thành lập Vụ phát triển nhân lực CNTT-TT; hỗ trợ thành lập Khu đào tạo CNTT-TT và ngoại ngữ tập trung; ưu tiên đa dạng hóa liên kết, hợp tác hoạt động doanh nghiệp, viện nghiên cứu, nhà trường…
Ông Phí Đắc Hải, Hiệu trưởng Trường cao đẳng CNTT hữu nghị Việt Hàn đề nghị đầu tư có trọng tâm. Về chính sách, Bộ nên có định hướng tập trung vào phát triển lĩnh vực ứng dụng để từ đó, các cơ sở giáo dục định hướng xây dựng chương trình đào tạo. Về kinh phí, dành kinh phí thỏa đáng của đề án để đầu tư cơ sở vật chất cho các trường trọng điểm; lựa chọn đầu tư các trường trọng điểm cả 3 miền.
Ông Huỳnh Hữu Tuệ, Hiệu trưởng Đại học Bắc Hà đã đóng góp ý kiến về đổi mới tư duy và phương pháp đào tạo tiếng Anh. Đó là chú trọng quan tâm đến học lực của từng sinh viên, giới hạn lớp dưới 20 sinh viên, tăng giờ học lên 10-20 giờ/tuần, mời giáo viên bản ngữ, bỏ cách chấm điểm, kiểm tra cuối kỳ thông thường, học song ngữ: nghe giảng bằng tiếng Việt nhưng lại dùng giáo trình tiếng Anh, đến năm thứ hai là học song ngữ nghe giảng bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt, năm thứ ba là viết bằng tiếng Anh, làm mọi bài tập bằng tiếng Anh. Đến năm thứ tư là hoàn thiện các kỹ năng. Cách đào tạo này kinh phí rất lớn song hiệu quả thực tiễn cao. Đại học Hà Nội cũng đóng góp ý kiến về đào tạo tiếng Anh chuyên ngành CNTT như việc soạn giáo trình riêng, xây dựng chuẩn tiếng Anh CNTT.
Ông Vũ Tuấn Lâm, Học viện BCVT, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Bưu điện, đề xuất mức thu học phí cần cao hơn do đòi hỏi đào tạo phải có nhiều kỹ năng đặc biệt. Liên kết giữa cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo sẽ giải quyết đồng bộ những tồn tại trong đào tạo CNTT hiện nay.
Ông Nguyễn Thượng Hải, Giám đốc phụ trách giáo dục Intel Việt Nam trình bày giải pháp của Intel là chọn những học sinh xuất sắc năm thứ 2 đưa sang đào tạo tiếp tại Mỹ 2 năm cuối, sau khi tốt nghiệp quay trở lại Việt Nam làm việc, hợp tác với Bộ Giáo dục & Đào tạo đưa giáo viên sang giảng dạy tại đại học của Mỹ để tiếp cận với phương pháp giảng dạy hiện đại.
Ông Trần Lương Sơn, Tổng giám đốc Công ty CP phần mềm Việt (Vietsoftware) đưa ra ý kiến nên bắt đầu từ chính sách. Ông Phan Phương Đạt, Phó Tổng giám đốc FPT Software đã nêu số lượng cụ thể nhu cầu nhân lực của công ty hàng năm. Số liệu này cũng cho thấy các doanh nghiệp CNTT có ít sự lựa chọn trong tuyển dụng. Tạm ước tính cứ 1 vị trí làm tại công ty có khoảng 7 sinh viên ứng cử (con số này tại Ấn Độ là hơn 100).
Phó hiệu trưởng Đại học Cần Thơ Đỗ Văn Xê cho rằng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 20% dân số, để triển khai đưa Internet về hộ gia đình cái khó khăn là máy tính, cần lưu ý đến phần mềm nguồn mở như vậy chương trình đào tạo cần bám sát nhu cầu thực tiễn này.
Một số doanh nghiệp khác cũng đề xuất phải xã hội hóa giáo dục, hợp tác với các doanh nghiệp để có nguồn kinh phí. Đào tạo phải ưu tiên phát triển cao đẳng.