Đóng góp ý kiến cụ thể vào dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản, ĐBQH Đặng Bích Ngọc đồng tình với sự cần thiết phải sửa đổi Luật Địa chất khoáng sản lần này. Về phân nhóm khoáng sản (Điều 7), đại biểu cơ bản nhất trí với phân loại 4 nhóm khoáng sản như dự thảo Luật, đặc biệt là phân loại riêng biệt với khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và khoáng sản làm vật liệu san lấp. So với Luật hiện hành hiện nay thì việc phân loại như dự thảo Luật sẽ bảo đảm việc phân cấp thẩm quyền quản lý, thực hiện cải cách thủ tục hành chính đối với từng nhóm khoáng sản. Điều này góp phần khắc phục bất cập về thiếu nguồn vật liệu, là một trong những nguyên nhân khiến nhiều công trình, dự án chậm triển khai và Quốc hội cũng đã phải ban hành các cơ chế đặc thù đối với vấn đề này.
Tuy nhiên, đối với hai nhóm khoáng sản này, đại biểu cho rằng, cần rà soát các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường tại điểm c khoản 1, loại gì cần phải quy định trong Luật để bảo đảm chặt chẽ, tránh khoảng trống pháp luật thì cần phải đưa vào. Hiện nay, dự thảo Luật đang giao Chính phủ quy định chi tiết và trong dự thảo Nghị định thì danh mục khoáng sản nhóm III cũng có sự kế thừa Điều 64 Luật Khoáng sản, theo đại biểu, cần đánh giá chi tiết dựa trên tính khoa học, yếu tố kỹ thuật của từng loại khoáng sản, tác động môi trường để quy định cho đầy đủ, tạo điều kiện cho tổ chức triển khai thực hiện sau này.
Tại khoản 2 Điều 58 dự thảo Luật không quy định về điều kiện để tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép khai thác khoáng sản. Điều này là khác so với Luật hiện hành, quy định các tổ chức, cá nhân phải đáp ứng các điều kiện gồm có dự án đầu tư khai thác khoáng sản trong khu vực được thăm dò, có báo cáo đánh giá tác động môi trường, điều kiện về vốn chủ sở hữu. Trong báo cáo tổng kết thi hành Luật khẳng định, hiện nay đã khắc phục được tình trạng cấp phép khai thác tràn làn, đồng thời cũng không đề cập đến việc quy định này có đang gây ra vướng mắc gì không để cần phải sửa đổi.
Theo đại biểu, quy định điều kiện cá nhân, doanh nghiệp cần phải đáp ứng khi cấp giấy phép khai thác khoáng sản là hết sức cần thiết nhằm bảo đảm năng lực, công nghệ, bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản. Do đó, trong báo cáo cần đánh giá thêm rõ hơn về việc sửa đổi này.
Về trách nhiệm lập quy hoạch khoáng sản (Điều 15) có quy định: “Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và UBND các tỉnh có liên quan tổ chức lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm I; quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm II. Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường hiện có 2 loại ý kiến. Trong đó, loại ý kiến thứ 1 là theo Điều 15 của dự thảo Luật và loại ý kiến thứ 2 là giao Bộ Công thương tổ chức lập trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thăm dò, khai thác chế biến và sử dụng khoáng sản nhóm I; Bộ Xây dựng sẽ tổ chức lập trình Thủ tướng Chính phủ quy hoạch thăm dò khai thác, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản nhóm II theo như Luật hiện hành.
Thực tiễn thời gian qua khi đánh giá thực hiện Luật Khoáng sản năm 2010 thì trong báo cáo không có đánh giá tác động về những khó khăn, vướng mắc, cũng như không thấy được quá trình tổ chức triển khai thực hiện. Đề nghị trong báo cáo thẩm tra cần phân tích đánh giá thêm nội dung này để tạo điều kiện thuận lợi sau này, bảo đảm chất lượng, thực hiện hiệu quả, giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Liên quan đến Điều 104 về khu vực đấu giá, không đấu giá quyền khai thác khoáng sản, theo báo cáo tổng kết 13 năm thực hiện Luật Khoáng sản thì Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp 440 giấy phép khai thác nhưng chỉ có 10 khu vực thông qua đấu giá. UBND cấp tỉnh cấp khoảng 3.000 giấy phép, trong đó chỉ có 827 khu vực thông qua đấu giá. Các mỏ khoáng sản đưa vào đấu giá thì tăng 20 đến 40% so với giá khởi điểm. Như vậy việc đấu giá quyền khai thác khoáng sản mang lại hiệu quả cao, tăng thu cho Nhà nước nhưng tỷ lệ cấp phép khai thác thông qua đấu giá là rất thấp, mục tiêu chính sách với chế định đấu giá quyền khai thác khoáng sản không đạt được.
Ngoài ra, thông tin trên báo chí cho thấy, có nhiều doanh nghiệp tư nhân muốn được khai thác khoáng sản từ việc tiếp nhận lại các mỏ đã được doanh nghiệp Nhà nước thăm dò và phê duyệt trữ lượng. Việc huy động được nguồn lực xã hội vào khai thác khoáng sản là rất quý, góp phần sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, nhanh chóng trả lại qũy đất cho địa phương để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, khi có nhiều đơn vị quan tâm mà Nhà nước không có cơ chế lựa chọn phù hợp thì vô hình chung sẽ tạo ra cơ chế “xin - cho”, dẫn đến rủi ro pháp lý cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Việc lựa chọn doanh nghiệp đủ năng lực để cấp quyền khai thác khoáng sản thông qua đấu giá sẽ tạo môi trường kinh doanh công bằng cho các doanh nghiệp, nhằm tăng thu cho nguồn ngân sách Nhà nước. Do đó, đại biểu đề nghị trong Điều 104 sẽ bỏ điểm b, d của khoản 2. Đồng thời có đánh giá kĩ nội dung này để bảo đảm khai thác hiệu quả nguồn khoáng sản nhưng cũng bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện cho các địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội.