Từ nguồn vốn trên, từ đầu năm tới nay, tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều chính sách như: Chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo; Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo; Chính sách hỗ trợ vay tín dụng ưu đãi; chính sách hỗ trợ tiền điện… 6 tháng đầu năm 2022 đã tổ chức mua, cấp 423.630 thẻ BHYT miễn phí trong đó người sống ở vùng đặc biệt khó khăn là 8.413 thẻ; người DTTS 257.177 thẻ; người nghèo 33.590 thẻ; người thuộc hộ cận nghèo hỗ trợ 100% 22.623; đối tượng bảo trợ xã hội là 9.240 thẻ còn lại là các đối tượng khác. Tiếp tục thực hiện hỗ trợ cho người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi và đối tượng bảo trợ xã hội từ Quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo của tỉnh.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hòa Bình hỗ trợ xây dựng mới 72 nhà và hỗ trợ sửa chữa 2 nhà đại đoàn kết từ nguồn quỹ “Ngày vì người nghèo” với tổng kinh phí hỗ trợ là 2.190 triệu đồng. Thực hiện các chương trình tín dụng tính đến hết ngày 31/5/2022 Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh Hòa Bình đã cho 21.124 lượt khách hàng vay vốn với danh số cho vay là 811.679 triệu đồng để phát triển sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm trong đó có: 4.440 hộ nghèo vay với doanh số cho vay là 219.041 triệu đồng; 2.943 hộ cận nghèo vay với doanh số cho vay là 145.129 triệu đồng; 1.235 hộ mới thoát nghèo vay với doanh số cho vay là 62.480 triệu đồng và một số chương trình khác... Hiện tổng số khách hàng còn dư nợ vốn là 120.628 hộ với tổng dư nợ là 3.904.551 triệu đồng.
Năm 2022 đã tạm phân bổ kinh phí hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo, hộ chính sách xã hội là 17.950 triệu đồng. Đã phân bổ dự toán hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh, sinh viên năm 2022 với tổng kinh phí khoảng 254.610 triệu đồng.
Thực hiện hỗ trợ cho 34.029 hộ nghèo tiền ăn tết với tổng số kinh phí là 13.611,6 triệu đồng; Tiếp tục thực hiện Dự án phát triển kinh tế xã hội 02 xã Hang Kia, Pà Cò huyện Mai Châu giai đoạn 2021-2025. Mục tiêu đặt ra trong năm 2022 là giảm tỷ lệ hộ nghèo: Từ 2,5% - 3%, các huyện nghèo giảm từ 3,5%- 4% trở lên. Dự kiến số hộ nghèo cuối năm 2022: 28.710 hộ (giảm 5.319 hộ), tỷ lệ 12,99%.
Nhìn chung, thực hiện chương trình giảm nghèo, thời gian qua công tác lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp sát sao, quyết liệt ngay từ đầu giai đoạn, đã triển khai xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện Chương trình. Các đơn vị, địa phương đã xây dựng kế hoạch thực hiện Chương trình giai đoạn 05 năm và hàng năm; đồng thời việc thông báo nguồn vốn trung hạn là điều kiện thuận lợi, tạo sự chủ động cho các địa phương trong việc đề xuất các nội dung hoạt động, huy động tối đa nguồn lực, nhất là nguồn lực xã hội hóa trong việc thực hiện Chương trình. Ban Chỉ đạo các cấp và Ban quản lý cấp xã kịp thời thành lập, kiện toàn theo đúng quy định, đảm bảo công tác chỉ đạo, điều hành Chương trình. Thành lập Văn phòng điều phối Chương trình tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động điều phối Ban Chỉ đạo, kịp thời đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Tuy nhiên, hiện nay tiến độ triển khai Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững chậm; Công tác giảm nghèo khó khăn, tỷ lệ giảm nghèo chậm. Khó khăn trong việc xác định đối tượng “người lao động có thu nhập thấp” đối với việc triển khai nội dung hỗ trợ phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn. Một số nội dung thực hiện các Dự án, Tiểu dự án phải trình ban hành Nghị quyết của HĐND tỉnh nên dù đã được phân bổ kinh phí nhưng các địa phương vẫn phải đợi HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết nên việc triển khai thực hiện còn chậm.
Mục tiêu năm 2023, phấn đấu năm 2023 giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 2,5%-3%, huyện nghèo giảm từ 4% trở lên. Trong đó phấn đấu đạt một số chỉ tiêu chủ yếu sau: Phấn đấu giảm số hộ nghèo đến cuối năm 2023: 23.095 hộ (giảm 5.615 hộ), tỷ lệ 10,39%; Hoàn thành 49 công trình phục vụ sản xuất và dân sinh trên địa bàn huyện nghèo (bao gồm 31 dự án chuyển tiếp từ năm 2022 và 18 dự án khởi công mới năm 2023); Xây dựng và nhân rộng các mô hình dự án giảm nghèo thành công./.