Nội dung hành động: Hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật về chất lượng, an toàn thực phẩm; Thông tin, truyền thông về an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng thực phẩm nông lâm thủy sản an toàn; Giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật; Hỗ trợ kết nối sản xuất và kinh doanh sản phẩm nông lâm thủy sản an toàn; Đầu tư mua sắm trang thiết bị kiểm nghiệm,tổ chức đào tạo và kiện toàn bộ máy quản lý và thanh tra chuyên ngành...
Kết quả và chỉ số cần đạt của chương trình: Ngăn chặn, xử lý dứt điểm việc lưu thông, buôn bán, sử dụng hóa chất cấm, lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi, kháng sinh cấm trong nuôi trồng, bảo quản, chế biến thủy sản; Ngăn chặn hiệu quả việc lưu thông, buôn bán, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, chất xử lý cải tạo môi trường, chất bảo quản, phụ gia ngoài danh mục, kém chất lượng, không an toàn trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; Chấn chỉnh việc giết mổ, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ thịt giảm thiểu ô nhiễm vi sinh vật có hại. Đến cuối năm 2016, tỷ lệ mẫu giám sát sản phẩm nông lâm thủy sản không đảm bảo an toàn thực phẩm giảm 10% so với năm 2015; Tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản được kiểm tra đạt yêu cầu về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm tăng 10% so với năm 2015; Tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản xếp loại C (không đạt điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm)được nâng hạng A/B tăng 10% so với năm 2015; Phát triển, nhân rộng chuỗi cung ứng nông lâm thủy sản an toàn và tổ chức kiểm tra, giám sát, cấp giấy xác nhận bán sản phẩm an toàn và công khai tại nơi bày bán cho người tiêu dùng; Nhận thức, trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh về an toàn thực phẩm, niềm tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm an toàn có xác nhận được nâng cao; Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn ở tỉnh với các huyện, thành phố về công tác quản lý an toàn thực phẩm được tăng cường và có hiệu quả./.