Các chính sách an sinh xã hội được triển khai đồng bộ giúp các đối tượng thụ hưởng tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về tín dụng, việc làm, hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các địa phương nhằm phục vụ người dân tốt hơn. Thông qua việc triển khai đồng bộ và có hiệu quả các Chương trình, dự án của nhà nước về xoá đói, giảm nghèo, lao động việc làm và dạy nghề đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nói chung, đồng bào các dân tộc ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn nói riêng; cơ sở hạ tầng các thôn, xã đặc biệt khó khăn tiếp tục được cải thiện; đời sống tinh thần của người dân được bảo tồn và phát triển góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vai trò của người lao động nông thôn được khẳng định, người dân ngày càng năng động, sáng tạo, có ý chí vươn lên, tích cực vận dụng, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất và đời sống, góp phần quan trọng trong công tác xoá đói, giảm nghèo.
Thu nhập bình quân đầu người từ 5,2 triệu đồng năm 2006 lên 13,4 triệu đồng năm 2010; Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 22,02% năm 2008 xuống 16,45% năm 2010 (theo tiêu chí giai đoạn 2006-2010), năm 2011 là 31,51% xuống 21,73% đầu năm 2013 (tiêu chí giai đoạn 2011-2015), dự báo hết năm 2013 tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm còn khoảng 18%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2006 là 11% lên 25% năm 2010 và năm 2012 đạt 32%; Tạo việc làm cho khoảng 15.000 – 16.000 lao động mỗi năm; Tỷ lệ thất nghiệp vùng thành thị được khống chế ở mức dưới 5%; Các chính sách hỗ trợ người nghèo, đảm bảo an sinh xã hội được thực hiện tốt. 100% người nghèo được cấp thẻ BHYT; 100% học sinh là con em hộ nghèo được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp khác. Chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn thiện, mức trợ cấp ưu đãi ngày một tăng; Tỉnh đã chi trả trợ cấp xã hội hàng tháng cho trên 8.000 người có công. Các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” thường xuyên được tổ chức và thu hút được sự hưởng ứng của toàn xã hội; cuối năm 2012, có 96% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn. Các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất được thực hiện rộng hơn cả về quy mô và đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng; số người được thụ hưởng tăng từ 2.285 người năm 2000 lên 16.834 người năm 2012.
Bảo hiểm xã hội được triển khai với 3 loại hình: Bảo hiểm bắt buộc, BH tự nguyện và BH thất nghiệp. Số người tham gia BH bắt buộc ngày càng tăng, năm 1995 chỉ có 24.977 người, đến năm 2012 đã có 56.851 người; số người tham gia BH tự nguyện đến 2012 có 796 người; số người tham gia BH thất nghiệp năm 2012 khoảng 44.201 người. Bảo hiểm y tế tăng nhanh, đến cuối năm 2012 có trên 92% dân số toàn tỉnh tham gia, đặc biệt đã thực hiện chính sách BHYT miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, một số đối tượng chính sách xã hội, như: người có công, người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số, các đối tượng BTXH, người cao tuổi…
Hệ thống chính sách về y tế đã góp phần cải thiện và nâng cao cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật cho các cơ sở khám chữa bệnh từ tuyến xã đến tuyến tỉnh, giúp người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế ngay tại cơ sở. Số bệnh viện tuyến huyện và tỉnh đạt chuẩn y tế quốc gia là 54%; số trạm y tế xã, phường đạt chuẩn quốc gia là 47,6%; Số phụ nữ có thai được khám thai định kỳ 3 lần trở lên tăng từ 30,2% năm 1991 lên 82,5% năm 2012; phụ nữ mang thai được tiêm phòng uốn ván tăng từ 40,5% năm 1991 lên 99,7% năm 2012.
Thông qua các chính sách nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt… cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo đời sống khó khăn, đã giúp 20.000 hộ xoá được nhà tạm, 76% dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, 34,1% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn Bộ Y tế.
Hệ thống chính sách nhằm đảm bảo giáo dục tối thiểu đã góp phần củng cố và tăng cường hệ thống cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng dạy và học, chính sách hỗ trợ sinh viên nghèo tiền học phí, chi phí học tập giúp các em có điều kiện để đến trường. Tính đến năm 2012, tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi ra lớp đạt 64%; trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 99,9%, được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,5%; trẻ 6 đến 11 tuổi đi học đúng tuổi đạt 98%; tỷ lệ huy động trẻ khuyết tật cấp tiểu học hoà nhập đạt 99,9%; số học sinh được công nhận hoàn thành chương trình cấp tiểu học đạt 98%, trong đó 100% học sinh vào lớp 6; tỷ lệ học sinh trung học cơ sở vào học trung học phổ thông đạt 80-82%; tỷ lệ xét tốt nghiệp học sinh THCS đạt 97-99%; tỷ lệ học sinh cấp THPT tốt nghiệp đạt từ 95-99%. Số người được tuyển sinh học nghề tăng nhanh, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 4,5% năm 2000 lên 32% năm 2012.
Trong giai đoạn 1991 – 2013, hệ thống an sinh xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với diện bao phủ không ngừng được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. An sinh xã hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội.