
Tỉnh đã thực hiện đồng bộ các giải pháp quy hoạch công nghiệp; các phương án phát triển công nghiệp trong Quy hoạch tỉnh Hòa Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; công tác quy hoạch, kế hoạch đáp ứng được yêu cầu trong phát triển mới. Hệ thống kết cấu hạ tầng công nghiệp được quan tâm đầu tư tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp vào thuê đất sản xuất kinh doanh... Hệ thống hạ tầng giao thông ngày một hoàn thiện. Công tác cải cách hành chính, cải cách thể chế và xây dựng cơ chế chính sách đáp ứng yêu cầu về phát triển công nghiệp. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có nhiều đổi mới theo hướng trọng tâm hơn, tập trung vào các đề tài có ý nghĩa thiết thực, phù hợp với điều kiện của tỉnh; góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc đề ra chủ trương, chính sách của tỉnh trong phát triển kinh tế xã hội. Công tác phối hợp triển khai thực hiện giữa các cơ quan đơn vị được tăng cường. Việc tiếp cận nắm bắt, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn cho hoạt động sản xuất trên địa bàn đã thường xuyên và kịp thời, đem lại hiệu quả cho hoạt động sản xuất phát triển công nghiệp của địa phương.
Kết quả thực hiện các mục tiêu: Chỉ số sản xuất công nghiệp (IPP) ước tăng bình quân 0,41%/năm, đạt 4,56% mục tiêu đề án. Diện tích đất dành cho phát triển công nghiệp (khu, cụm công nghiệp) khoảng 6.113,48 ha, đạt 132,9% mục tiêu. Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng trong cơ cấu kinh tế tỉnh đạt 39,47%, đạt 73,09% mục tiêu. Tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới quốc gia đạt 100%, đạt 100,1%. Tỷ lệ lấp đầy bình quân các khu công nghiệp là 46,77%, đạt 58,46%; các cụm công nghiệp là 41,3%, đạt 82,4% mục tiêu đề án.
Hàng năm, tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện đánh giá, rà soát các làng nghề, làng nghề truyền thống đạt đủ tiêu chí theo quy định tại Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ để xem xét, đánh giá công nhận; đồng thời chỉ đạo các địa phương, cơ quan liên quan đối với các làng nghề, làng nghề truyền thống được công nhận tiếp tục tập trung hỗ trợ bảo tồn và phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống. Đến nay có 11 làng nghề, làng nghề truyền thống được công nhận, Trong đó, có 02 làng nghề thuộc nhóm ngành nghề sản phẩm chế biến (02 Làng nghề nấu rượu); 07 làng nghề truyền thống thuộc nhóm ngành nghề sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, dệt may, thêu ren, đan lát (gồm 01 làng nghề truyền thống mây tre đan và 6 làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm); 02 làng nghề trong nhóm ngành nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ (01 làng nghề chế tác đá cảnh, 01 làng nghề chế tác gỗ lũa, đá cảnh). Tổng số lao động của các làng nghề khoảng 1.300 người.
Tuy nhiên hiện nay, việc đầu tư kết cấu, hạ tầng công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; nhiều công trình kéo dài thời gian thi công. Công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, tái định cư còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc, thời gian thực hiện kéo dài làm chậm tiến độ triển khai thực hiện dự án. Hạ tầng các khu công nghiệp và cụm công nghiệp triển khai đầu tư chậm, tỷ lệ lấp đầy diện tích khu, cụm công nghiệp chưa cao; Hạ tầng giao thông chưa đồng bộ. Việc bố trí vốn cho các công trình, dự án còn hạn chế ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển công nghiệp. Hoạt động đầu tư, nghiên cứu khoa học và công nghệ và đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò của khoa học và công nghệ trong nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa. Chưa tạo ra nhiều việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, chất lượng lao động còn thấp, trình độ tay nghề chưa cao, khả năng cạnh tranh còn yếu. Nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản, khai thác chế biến chưa bền vững, đầu ra của một số sản phẩm công nghiệp chưa thực sự ổn định.
Để tiếp tục thực hiện hiệu quả Đề án số 07-ĐA/TU nhằm thực hiện đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII nhiệm kỳ 2020-2025 đề ra, thời gian tới các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể từ cấp tỉnh đến cơ sở, đơn vị liên quan cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí tầm quan trọng và lợi ích lâu dài của việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; yếu tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội bền vững của tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hút đầu tư; hỗ trợ và giải phóng mặt bằng, tái định cư. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước về lĩnh vực công nghiệp. Nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, các cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Tăng cường phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền các huyện, thành phố với các cơ quan liên quan trong công tác giải phóng mặt bằng, giải quyết các vấn đề tồn tại phát sinh nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; nghiên cứu, đề xuất bổ sung một số cơ chế, chính sách, giải pháp và tổ chức thực hiện có hiệu quả hơn trong công tác bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng tại các khu, cụm công nghiệp...
Tiếp tục chú trọng phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, thân thiện môi trường với trọng tâm là công nghiệp hỗ trợ; chế biến khoáng sản, chế biến nông lâm sản; vật liệu xây dựng; công nghiệp cơ khí, thiết bị điện, điện tử... trên cơ sở phát triển các khu chế biến và các vùng nguyên liệu phụ trợ, các khu, cụm công nghiệp. Đẩy mạnh phát triển các làng nghề gắn với nguồn nguyên liệu hiện có, thân thiện với môi trường, phục vụ du lịch và xuất khẩu. Rà soát và xử lý dứt điểm các dự án sản xuất công nghiệp hoạt động kém hiệu quả, gây ô nhiễm môi trường, có tác động tiêu cực tới phát triển du lịch và môi trường, sinh thái; di dời các cơ sở sản xuất không phù hợp với quy hoạch và các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo Kế hoạch số 146/KH-UBND ngày 19/8/2022 của UBND tỉnh Hòa Bình.
Tập trung thu hút các dự án công nghiệp lớn nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế; các doanh nghiệp có uy tín, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sử dụng công nghệ cao trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp điện tử, khuyến khích đầu tư công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp chế biến nông sản...
Tiếp tục huy động mọi nguồn lực để hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt đầu tư hoàn hiện hạ tầng giao thông; hạ tầng kỹ thuật đến chân hàng rào các khu, cụm công nghiệp. Đặc biệt là các khu, cụm công nghiệp nằm trong vùng động lực của tỉnh và các dự án trọng điểm của Tỉnh.
Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác quy hoạch; triển khai thực hiện và quản lý quy hoạch theo Luật Quy hoạch; tăng cường quy chế phối hợp quản lý nhà nước; quản lý chặt chẽ quy hoạch các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, không để xảy ra tình trạng xây dựng trái phép trong các khu, cụm công nghiệp. Chủ động xây dựng chương trình, định hướng, chiến lược phát triển công nghệ cao phù hợp với lợi thế cạnh tranh của tỉnh trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Tăng cường và đổi mới các hoạt động xúc tiến đầu tư; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, kêu gọi đầu tư vào những lĩnh vực ưu tiên. Thường xuyên tiếp xúc, đối thoại với các nhà đầu tư, doanh nghiệp, kịp thời giải quyết dứt điểm kiến nghị của doanh nghiệp, nhà đầu tư, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án.
Rà soát, vận dụng linh hoạt các cơ chế, chính sách trong công tác đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; nghiên cứu giải pháp phù hợp với thực tế tại địa phương và tổ chức thực hiện có hiệu quả trong công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng.
Mở rộng mạng lưới đào tại nghề và thay đổi cơ cấu đạo tạo nghề theo nhu cầu thị trường lao động và của doanh nghiệp công nghiệp đảm bảo có đủ nhân lực có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng cần thiết để vận hành và quản lý quy trình sản xuất. Đặc biệt quan tâm đào tạo, tập huấn nâng cao tay nghề, trình độ người dân tại địa phương; đẩy mạnh công tác đào tạo nghề theo hướng xã hội hóa, đa dạng hóa hình thức đào tạo, linh hoạt và thiết thực.
Quan tâm đầu tư hệ thống lưới điện đảm bảo cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của người dân. Triển khai có hiệu quả Nghị quyết 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng Quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của các dự án trong việc đấu nối cung cấp điện, đặc biệt là các khu, cụm công nghiệp đã có nhà đầu tư và các dự án trọng điểm của tỉnh.
Tăng cường công tác lãnh đạo cải cách hành chính, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành kinh tế - xã hội, gắn kết chặt chẽ với đề án xây dựng chính quyền điện tử cấp tỉnh, tạo điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp và người dân tiếp cận nhanh với các dịch vụ trong giải quyết công việc./.