Mo Mường gồm 14 lễ thức cơ bản, cụ thể gồm: 1 Toống Tlùng (Tống Trùng); 2 Kẹ (Cúng thần Kẹ); 3 Tạp ma (Đạp ma); 4 Nhương ăn ( Dâng ăn); 5 Dâật (Gọi Mo dậy); 6 Nhìn họ (Nhìn họ); 7 Mo Leeng tlời – thuống tất (Mo lên trời- xuống đất); 8 Mo tlêu (Mo kể chuyện); 9 Mo Nhà xe (Mo Nhà xe); 10 Cuổi tếch, cuổi lìa (Chia cắt chìa lìa); 11 Wềl rừng (Về rừng); 12 Chia của (Chia của); 13 Lấp cửa mả (Lấp cửa mả); 14 Tả tem (Bỏ tang). Mười bốn nghi thức này phản ánh đầy đủ quan niệm và cách ứng xử của người Mường với xác chết và linh hồn.
Với góc độ của bài viết, tôi xin trình bày ý nghĩa của lễ thức mo “Cuổi lìa”. Đây là một trong mười bốn lễ thức mo mang giá trị nhân văn rất sâu sắc của Mo Mường.
“Mo táy, mo lìa” hay còn gọi là mo “Cuổi lìa” là mo mang nội dung lời của người quá cố dặn dò lại con cháu trong đêm cuối của tang lễ người Mường. Trong đêm cuối cùng của tang lễ, Ông mo cất lên những lời mo với làn điệu hết sức da diết, thống thiết:
“Con trai ta ở lại
Con gái ta ở lại ngày sau
Con anh phải xem đụn
Con em, con chị phải biết trông nhà
Xem gà, ngó lợn
Giữ lửa, chăm nước con ơi
Để cho người từ ngoài đồng trông vào nhà con ta
Thấy dường như còn có bố con ời”.
………………………………………………………..
“Con anh, con em, còn ở chung đụn, chung nhà
Con chị có mắng nhiếc
Con em phải nhẫn nhìn
Dường như thể tai điếc đấy con ời”.
…………………………………………………………
“Con anh, con em còn ở chung đụn, chung nhà
Đầm ao, bờ ruộng chung bờ, chung lối
Náu nắng phải chung bóng râm
Trâu bò nhà ta phải chung một áng con ời”
Những lời lẽ đó là mong muốn của người quá cố dặn dò lại con cái phải biết đùm bọc yêu thương lẫn nhau, bảo ban nhau làm ăn. Anh em còn ở chung một nhà phải biết nhường nhịn nhau, người anh, hoặc người chị có quyền thay cha mẹ dạy bảo, uốn nắn thậm chí là mắng nhiếc người làm em nhưng trên tinh thần “Náu nắng phải chung một bóng râm”. Hiểu rộng ra câu ấy có nghĩa là dù anh có mắng em đi chăng nữa nhưng vẫn phải luôn yêu thương em, che mưa, che nắng cho nhau chứ không được để bụng, thù hằn.. Đặc biệt người quá cố còn dặn dò con cái phải chăm lo làm ăn, nuôi gà, nuôi lợn, trâu bò, phải biết cày bừa, cấy hái làm nương, làm rẫy xen canh canh tác.
“Thấy con nhà người ta vác bừa, vác cày
Con ta cũng phải vác bừa, vác cày
Con ta phải mải miết làm cơm, làm lúa thì mới có
Phải mải miết với ruộng với nương thì mới sang
Đừng làm những trò ham chơi, lười nhác
Lười nhác sẽ tới cảnh đói kém
Khi đói kém mất trâu đi mua nhà mà chẳng được lúa
Mất bò đi chác mà chẳng được mạ đâu con ời
Con ta rắc mạ ở đâu thì phải rào
Thấy trâu vào phải đuổi”
……………………………………..
“Mỗi ngày đông lên một thứ
Như trăng mọc ngày rằm”
………………………….
Lời mo còn dăn dạy con cái đạo đức làm người, giữ gìn nhân cách, nhân phẩm, “đói cho sạch, rách cho thơm”, tuyệt đối không đi ăn trộm, ăn cắp.
“Con ta không được đi ăn trộm cái gùi lá dâu
Con ta không được đi ăn trộm măng
Con ta không được đi ăn trộm rau mà người ta mắng nhắc
Mắng nhở đến cha mà thương con ời
Con ta không được đi ăn trộm trâu
Con ta không được đi ăn trộm bò
Con ta không được nói xấu con dâu, con rể”.
Người quá cố còn căn dặn những việc làm kiêng kỵ sau khi họ mất, những điều kiêng kị ấy để tránh điềm ma, điềm xấu. Việc kiêng kỵ là để con cái trong nhà có sức khỏe tốt hơn, làm ăn thuận và cuộc sống sung túc, ấm cúng hơn.
“Nếu con rẽ lợn con khỏi lợn mẹ đúng vào ngày cha về rừng
Ngày ấy hay phải điềm ma, điềm xấu
Con rẽ gà con khỏi gà mẹ vào ngày cha về rừng
Gà phải miệng cu, miệng cáo
Con ta ủ rượu ngày cha về rừng
Rượu hay chua
Con ta trồng củ ngày cha về rừng nó không ra ngọn
Trồng củ từ ngày cha về rừng nó không lên
Đánh cối đục đuông ngày cha về rừng giã gạo không hết lúa
………………………………………………..
Con trai con gái ta lấy vợ lấy chồng ngày cha về rừng
Thành đôi nhưng không thành lứa
Nên cửa nên nhà nhưng không người nối dõi”
Trải qua nhiều thế kỷ, đến nay, Mo Mường vẫn có sức sống bền bỉ với dân tộc Mường. Giới nghiên cứu cũng khẳng định, Mo Mường đã góp phần hình thành, nuôi dưỡng cốt cách, tâm hồn của bao thế hệ nhân dân giàu truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc Mường và vùng đất Hòa Bình.
Mo Mường là sự kết tinh những kinh nghiệm trong lao động sản xuất, ứng xử văn hóa, triết lý nhân sinh, thể hiện thiết tha tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu quê hương xứ sở, thể hiện khí phách, cốt cách của con người và vùng đất miền núi bản Mường ở Hòa Bình. Mo Mường chính là tính cách, là tâm hồn và đạo nghĩa của dân Mường. Từ quá khứ đến hiện tại, các thế hệ người Mường đã lưu giữ, truyền miệng và phát huy một cách bền vững những giá trị của Mo Mường, tạo nên sức sống, sức lan tỏa sâu rộng của di sản phi vật thể vô cùng quý giá này.