DetailController

Khoa học - Môi trường

Tiếng vọng từ lòng hồ thủy điện

23/08/2012 00:00

Nhiều thập kỷ trôi qua, hàng chục vạn hộ dân đã chấp thuận rời quê hương bản quán, nhường chỗ cho các công trình thủy điện, với nghĩa cử “tất cả vì dòng điện tương lai của Tổ quốc”. Trước sự hy sinh lớn lao ấy, Đảng, Nhà nước, chính quyền các địa phương đã quan tâm, dành nhiều chính sách thiết thực chăm lo đời sống bà con, với mục tiêu cuộc sống mới của bà con phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.

Không có đường ô tô, bà con bản Lau Bai (Đà Bắc) phải gùi ngô xuống bến thuyền bán cho thương lái

Dù vậy, vì nhiều lý do, cuộc sống của bà con tái định cư vẫn còn không ít khó khăn. Tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII (tháng 6/2012), “bài học Hòa Bình” đã nêu trước đó cả thập kỷ vẫn được nhắc lại với sự xót xa, khi có nơi, bà con “chạy vì nước nhưng không có nước, chạy vì điện mà không có điện”. Tình trạng đói, nghèo cũng diễn ra tương đối phổ biến ở các vùng di dân thủy điện khác.

Phóng viên đã vượt lòng hồ thủy điện Hòa Bình, theo chân những người bỏ khu tái định cư trở về lòng hồ, để tận mắt chứng kiến cuộc sống của bà con và tìm hiểu ngọn nguồn những cuộc hồi hương không mong đợi đó.

Xót lòng “thương cảng” Lau Bai

Trong cái nắng gay gắt giữa trưa hè, chúng tôi cùng anh Lý Văn Thanh, cán bộ khuyến nông xã Vầy Nưa (huyện Đà Bắc) - kiêm vai “thuyền trưởng” chiếc thuyền máy, vượt lòng hồ sông Đà, vào bản Lau Bai - bản cuối cùng của xã Vầy Nưa.

Anh Lý Văn Thanh năm nay đã 30 tuổi, có vợ và con nhỏ. Nhưng câu chuyện chuyển dân, di vén của gia đình, anh cũng chỉ được nghe kể lại như là cổ tích. Bởi lẽ, khi Nhà máy Thủy điện Hòa Bình khởi công xây dựng (năm 1979), Thanh còn chưa chào đời. Khi dòng điện đầu tiên của Tổ máy số 1 hòa lưới điện quốc gia (năm 1988), cậu bé Thanh vẫn thò lò mũi xanh, mơ một ngày được cùng bố ngồi ô tô ra thăm Nhà máy.

Nhưng có lẽ, anh không hình dung được, cho đến tận bây giờ, khi con trai anh đã lững chững biết đi, Lau Bai vẫn nằm cô độc trong vùng lòng hồ này. Ì ạch hơn một giờ đồng hồ, chúng tôi cũng đến được Lau Bai. Từ trên triền núi, một đoàn người cặm cụi, lưng trĩu nặng những gùi ngô, đang lầm lũi đổ xuống mép nước, nơi có vài chiếc xuồng máy, xuồng gỗ nhỏ xíu chờ sẵn. Ông Đinh Thế Hùng, Chủ tịch UBND xã Vầy Nưa ví von, đó là “thương cảng” Lau Bai, là điểm trung chuyển mọi nhu yếu phẩm phục vụ cuộc sống của mấy chục hộ người Dao tại bản.

Khe nước hẹp đầu bản Lau Bai trở thành “thương cảng” bất đắc dĩ, bởi Lau Bai là một trong vài bản còn lại của vùng lòng hồ thủy điện Sông Đà chưa có đường ô tô đến bản. Ông Lý Văn Tiến, Bí thư Chi bộ Lau Bai cho biết, các hộ dân ở đây đã ba lần di vén (nước dâng đến đâu, chuyển lên cao đến đó). Bao nhiêu vườn, ruộng trồng lúa nước, hoa màu trước kia đều đã nằm ở đáy hồ. Giờ ở chon von sát đỉnh núi, chỉ trồng được cây ngô, keo, nuôi vài con dê, nên hầu hết bà con thu nhập rất thấp. Bản gồm 27 hộ, thì có đến 17 hộ thuộc diện nghèo, chiếm 61%, chưa kể cận nghèo.

Đã vậy, đã vài chục năm qua, con đường ô tô giờ mới chạy đến bản Thin, còn cách Lau Bai 5 km nữa. Con đường mòn chạy xuyên rừng sang bản Thin, đến xe máy cũng không đi nổi vì thường xuyên lầy lội, ngập bùn.

Chỉ 5 km ấy thôi, mà ông Tiến và bà con Lau Bai cứ bị ám ảnh mãi, bởi nó “kéo” bao thứ đáng được cao đi xuống, lại đẩy bao thứ rất cần thấp đi lên. Ấy là giá mua cây, con giống phải “cõng” thêm chi phí đi thuyền ra xã; khi thu hoạch, lại phải bán giá thấp cho thương lái vào bản thu mua. “Bán tại bản, giá ngô cao nhất chỉ 3.700 đồng/kg, kém 500 đồng/kg so với giá ở xã. Nhà tôi làm mỗi năm 2 vụ, thu 10 tấn ngô, cũng mất đứt 5 triệu đồng - bằng cả một năm thu nhập trên mức nghèo của một nhân khẩu”, ông Tiến nhẩm tính

Ngô đã vậy, thu gỗ còn xót ruột hơn. Vì không có đường ô tô vào bản, phải thuê người vận chuyển qua 5 km đường mòn; rồi bốc, xếp; chưa kể đăng ký làm thủ tục khai thác với kiểm lâm, nên nài nỉ mãi mới có người vào mua cho… Không thu xếp nổi, ông Tiến đành bán ước chừng cả vườn, lấy 15 triệu đồng, dù biết là khi ra trung tâm huyện, họ có thể bán được gần gấp đôi.

Bỏ dở bát nước lá vừa nâng ngang cằm, ông Tiến nói với ánh nhìn xa xăm: “Năm ngoái, bản vừa giảm được 4 hộ nghèo. Nhưng năm nay, giá ngô thấp, gỗ thấp, khéo lại tái nghèo mất”.

“Nợ xấu” Sông Đà có nguy cơ gia tăng

 Không đến mức khốn khó như gia đình ông Lý Văn Tiến và bà con ở Lau Bai, bởi hầu hết các xã vùng lòng hồ Sông Đà của huyện Đà Bắc đều đã có đường ô tô đến từng bản, nhưng cuộc sống của hàng ngàn người dân ở đây vẫn chưa thoát khỏi đói nghèo.

Ông Nguyễn Hữu Mai, Trưởng ban quản lý dự án vùng lòng hồ sông Đà huyện Đà Bắc cho biết, huyện Đà Bắc có 20 xã, thị trấn thì có tới 15 xã vùng lòng hồ, dân ở chênh vênh trên cao

“Bây giờ, có xã không còn lấy một mét vuông ruộng nước, chỉ trông chờ vào cây ngô, cây keo, nên nghèo đói đeo đẳng. Thậm chí, 64 hộ dân xóm Kế, xã Mường Chiềng đến nay vẫn chưa có điện”, ông Mai ngậm ngùi/

 Theo thống kê của UBND huyện Đà Bắc, năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo tại các xã vùng lòng hồ Thủy điện sông Đà đều rất cao, như xã Đồng Nghê 60,4%; xã Đồng Ruộng, Trung Thành đều có trên 60%; các xã Suối Nánh, Đoàn Kết, Tân Minh, Tân Pheo, Đồng Chum đều có tỷ lệ hộ nghèo từ 57 – 59%...

Thực trạng trên, theo ông Nguyễn Mạnh Hòa, Chủ tịch UBND huyện Đà Bắc, là do công tác di dân (và sau này có kết hợp tái định cư) vùng lòng hồ thủy điện Hòa Bình có tính đặc thù, kéo dài qua nhiều thời kỳ, với nhiều chính sách khác nhau, khi thuộc tỉnh, khi phân về địa phương, khiến kết quả chưa đạt như mong muốn. Thậm chí, những năm đầu thực hiện, rất xót xa khi không ít cá nhân liên quan đã vướng vòng lao lý.

Ông Bùi Văn Tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình cũng cho rằng, vấn đề chính là cách làm chắp vá, chưa đột phá, dứt điểm được, dẫn đến kết quả không bền vững. Ông Tỉnh cho biết, tỉnh cũng rất sốt ruột. Ngay như con đường vào bản Lau Bai (xã Vầy Nưa, Đà Bắc), tỉnh đã duyệt kinh phí nhưng vẫn chưa làm được, vì vướng Chỉ thị 1792/CT-TTg cuối năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý đầu tư từ vốn ngân sách Nhà nước. Sắp tới, tỉnh sẽ trình danh sách cụ thể những công trình đặc biệt như vậy, đề xuất cơ chế vốn đặc biệt để thực hiện

“Dự án kéo dài, địa phương cũng mỏi mệt, vì làm nhiều, làm lâu mà vẫn không đạt hiệu quả mong muốn. Chúng tôi xác định, phải đầu tư dứt điểm hạ tầng thiết yếu vào năm 2015, để có thời gian lo đầu tư, hướng dẫn bà con sản xuất. Không thể để kéo dài món nợ này với đồng bào”, ông Tỉnh giãi bày.

Rõ ràng, không thể phủ nhận những kết quả của công tác di dân, tái định cư vùng lòng hồ sông Đà, phục vụ công trình Thủy điện Hòa Bình. Song, thực tế sau hơn 30 năm triển khai, công tác này vẫn còn rất ngổn ngang, đan xen cả yếu tố cũ và mới, đòi hỏi phải có sự quan tâm, vào cuộc của nhiều cấp, ngành; có những cơ chế đặc biệt, xứng đáng với sự hy sinh lớn lao của đồng bào các dân tộc Tây Bắc cho một công trình có ý nghĩa đặc biệt với sự phát triển của đất nước.

Nhớ lại lúc chúng tôi xuống thuyền rời Lau Bai, vợ anh Lý Văn Thanh bế đứa con nhỏ tiễn khách xuống tận mép nước lồng hồ. Đôi mắt đứa bé trong veo, sáng lấp lánh. Mong sao, cuộc đời cậu bé sẽ không như đời cha, đời ông mình, không dang dở giấc mơ về một cuộc sống đủ đầy, no ấm