DetailController

Giáo dục

Tập trung chăm lo giáo dục dân tộc trên địa bàn tỉnh

06/10/2020 00:00
Với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường học vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số được quan tâm, tập trung vào việc xây dựng trường học đạt chuẩn Quốc gia, xây dựng các tiêu chí của trường đạt chuẩn quốc gia; xây dựng phòng thư viện, phòng thiết bị, phòng học bộ môn, phòng tin học, phòng ngoại ngữ ... Vấn đề phát triển quy mô, mạng lưới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo các trường chuyên biệt được quan tâm.
Ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường học vùng khó khăn, vùng DTTS

Kết thúc năm học 2019 - 2020, toàn tỉnh có 13 trường PTDTNT, 12 trường PT DTBT. Việc đánh giá xếp loại về học lực, hạnh kiểm đối với các trường PT DTNT và PTDTBT THCS và đánh giá định kỳ về học tập, về năng lực phẩm chất đối với trường PTDTBT Tiểu học được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo đúng quy định. Năm học 2019 - 2020, tỷ lệ học sinh đạt học lực giỏi trong các trường PTDTNT đạt 13,5% (tăng 1,1% so với năm học 2018 - 2019), hạnh kiểm tốt đạt 90,9% (tăng 5,1% so với năm học 2018 - 2019).

Bên cạnh việc trang bị kiến thức, các nhà trường PT DTNT, PTBDBT quan tâm nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho học sinh, chú trọng giáo dục kỹ năng sống, tăng cường các hoạt động ngoài giờ lên lớp, đa dạng hình thức tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động văn hóa, văn nghệ cho các em học sinh DTTS theo cụm, khối, khu vực với các nội dung thiết thực, phù hợp tâm lí, sinh lí lứa tuổi và đặc điểm văn hóa dân tộc. Ngoài ra, theo Kế hoạch năm học của ngành, Sở GD&ĐT, các nhà trường cũng tổ chức các hoạt động TDTT góp phần rèn luyện sức khỏe, vui chơi giải trí gắn với giáo dục đạo đức, nền nếp, ý thức cho các em trong các nhà trường.

Bên cạnh đó, việc thực hiện công tác học sinh nội trú, bán trú như xây dựng nội quy khu nội trú, nội quy phòng ở, quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà trường; xây dựng lối sống văn minh, thanh lịch của học sinh dân tộc nội trú, bán trú được quan tâm; tổ chức, hướng dẫn và tạo cho học sinh nền nếp, ý thức, phương pháp tự học. Hiện nay, 100% các nhà trường đều có phòng ở cho học sinh tương đối sạch sẽ, nhà bếp nấu ăn cho học sinh đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Các chế độ chính sách đối với học sinh dân tộc được thực hiện đầy đủ, không có hiện tượng cắt xén chế độ của học sinh trong các nhà trường. Phối hợp với y tế địa phương chăm sóc sức khỏe cho học sinh. 100% các trường PTDTNT tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho học sinh ngay từ đầu năm học, chủ động tuyên truyền phòng chống dịch bệnh trong nhà trường. Một số trường đã tăng cường lao động sản xuất cải thiện cuộc sống như trồng rau xanh phục vụ bếp ăn, nuôi gia súc, gia cầm.

Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục đặc thù trong các trường chuyên biệt và các cơ sở giáo dục vùng DTTS, miền núi, Sở GD&ĐT tập trung huy động tối đa trẻ em, học sinh đi học, đồng thời có các biện pháp duy trì sĩ số bảo đảm tỷ lệ học sinh chuyên cần trong năm học nhất là học sinh DTTS, học sinh vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Các nhà trường phổ thông, các cơ sở GDTX ngay từ đầu năm học đã tiến hành cho học sinh làm bài khảo sát chất lượng, trên cơ sở kết quả khảo sát chất lượng học sinh đầu năm để phân nhóm học sinh, từ đó yêu cầu các giáo viên xác định phương pháp dạy học phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh trong lớp cũng như theo dõi và có biện pháp giúp đỡ học sinh yếu, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu nói chung và học sinh DTTS nói riêng. Đặc biệt, việc thực hiện các chế độ, chính sách về giáo dục dân tộc được ngành GD&ĐT triển khai đúng, đầy đủ theo quy định đã từng bước đáp ứng và giải quyết được những khó khăn đối với học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số, học sinh sinh viên vùng khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh ở xa được đến trường học có nơi ăn, ở thuận lợi hơn; thu hút cán bộ giáo viên đến công tác tại các trường đóng trên địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nhờ vậy mà chất lượng đại trà của học sinh DTTS chuyển biến rõ nét, tỷ lệ học sinh khá, giỏi tăng mạnh, tỷ lệ học sinh yếu kém, học sinh lưu ban, bỏ học giảm. Sự chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa vùng thuận lợi và khó khăn được thu hẹp đáng kể. Chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được khẳng định, số học sinh DTTS xếp loại học lực khá, giỏi và đạt giải trong các kỳ thi quốc gia ngày càng tăng./.