Theo Bộ Tài chính, việc ban hành Thông tư 19 về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế nhằm hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế số 38 liên quan đến hồ sơ, thủ tục về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế. Đặc biệt, Luật Quản lý thuế số 38 đã bổ sung đối tượng người nộp thuế (NNT) phải đăng ký thuế, khai thuế nộp thuế tại Việt Nam là các nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thưởng trú tại Việt Nam, nhưng có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác; đồng thời, ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, bộ, ngành có liên quan phải thực hiện giao dịch với cơ quan thuế bằng phương thức điện tử.
Thông tư gồm 5 Chương, 49 Điều, bám sát các nội dung quy định của Luật Quản lý thuế số 38, đảm bảo vừa đơn giản, dễ hiểu, vừa phù hợp với pháp luật có liên quan. Đồng thời, kế thừa các quy định đang thực hiện ổn định và không có vướng mắc tại Thông tư số 110/2015/TT-BTC; Thông tư số 66/2019/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 110/2015/TT-BTC về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế.
Cụ thể, thông tư bổ sung quy định đối với NNT là nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế với cơ quan thuế, thì được sử dụng mã xác thực giao dịch điện tử do hệ thống của cơ quan thuế, hoặc hệ thống của các cơ quan có liên quan đến giao dịch điện tử cấp gửi vào địa chỉ email đã đăng ký với cơ quan thuế, hoặc gửi qua APP do cơ quan thuế hướng dẫn.
NNT là tổ chức, cá nhân khai thay, nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân, nhà thầu nước ngoài thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế với cơ quan thuế, thì tổ chức, cá nhân khai, nộp thuế thay sử dụng chứng thư số của tổ chức, cá nhân khai, nộp thuế thay để ký trên các chứng từ điện tử khi giao dịch với cơ quan thuế bằng phương thức điện tử.
Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và các cơ quan nhà nước khác khi thực hiện giao dịch điện tử theo quy định tại thông tư này phải sử dụng chữ ký số được ký bằng chứng thư số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cấp, hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
Về trách nhiệm của ngân hàng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế cũng như trách nhiệm của cơ quan thuế, thông tư bổ sung trách nhiệm của ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, ngoài việc phải thực hiện trách nhiệm theo quy định của Luật Quản lý thuế, các văn bản hướng dẫn liên quan, các đơn vị có trách nhiệm trao đổi, truyền, nhận thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác theo quy định tại nghị định hướng dẫn Luật Quản lý thuế số 38; khai thác và bảo mật thông tin của NNT do cơ quan thuế cung cấp bằng phương thức điện tử để sử dụng cho việc quản lý nhà nước, phối hợp thu ngân sách nhà nước (NSNN).
Đồng thời, thông tư cũng bổ sung trách nhiệm của cơ quan thuế trong tiếp nhận thông tin từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng hệ thống kết nối, trao đổi thông tin với cổng thông tin của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thông tư 19 đã quy định cụ thể, chi tiết, rõ ràng trách nhiệm của NNT cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế. Một trong những điểm nhấn thông tư nêu rõ NNT được thực hiện các giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế 24 giờ trong ngày và 7 ngày trong tuần, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ và ngày tết. Đồng thời, NNT có thể lựa chọn các hình thức thực hiện giao dịch thuế điện tử qua hệ thống các cổng thông tin như: Thông qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; thông qua Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế. Ngoài các hình thức nêu trên, NNT có thể lựa chọn hình thức nộp thuế điện tử thông qua dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
Thông tư yêu cầu, NNT thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế phải đảm bảo các điều kiện sau: Có chứng thư số đang còn hiệu lực do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cấp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, trừ một số trường hợp như NNT là cá nhân đã có mã số thuế chưa được cấp chứng thư số. NNT cần có khả năng truy cập và sử dụng mạng Internet, có địa chỉ thư điện tử, có số điện thoại di động (đối với cá nhân chưa được cấp chứng thư số) đã đăng ký sử dụng để giao dịch với cơ quan thuế…
Về quyền và nghĩa vụ của NNT, thông tư nêu rõ: NNT khi thực hiện giao dịch điện tử với cơ quan thuế được sử dụng tài khoản giao dịch thuế điện tử do cơ quan thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp khi thực hiện giao dịch điện tử qua Cổng thông tin giao dịch thuế điện tử để thực hiện các thủ tục hành chính thuế bằng phương thức điện tử; tra cứu, xem, in toàn bộ chứng từ điện tử đã gửi đến cơ quan thuế và các thông báo, quyết định cơ quan thuế gửi cho NNT theo quy định; cơ quan thuế hướng dẫn, hỗ trợ trong quá trình thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế.
Đồng thời, NNT khi thực hiện giao dịch điện tử với cơ quan thuế có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thuế, cơ quan, tổ chức có liên quan để giải quyết sai sót hoặc sự cố phát sinh (nếu có) trong quá trình thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế; chịu trách nhiệm trước pháp luật về các thông tin của giao dịch điện tử phát sinh từ tài khoản giao dịch thuế điện tử đã đăng ký với cơ quan thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền./.