Tỷ trọng nông lâm nghiệp, thủy sản trong cơ cấu kinh tế còn khoảng 34,6%, trong đó tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản chiếm 27% trong nông lâm nghiệp, thủy sản. Giá trị thu nhập trên 1ha đất canh tác đã tăng từ 45 triệu đồng năm 2008 lên 49,3 triệu đồng năm 2010, diện tích trồng rừng mới đạt 8.000 ha, nâng độ che phủ rừng lên 46%. Các loại cây ăn quả, cây công nghiệp phát triển khá, những cây có giá trị cao như lạc, đậu tương, dưa hấu, mướp đắng, bí đỏ lấy hạt, rau đậu,... diện tích ngày càng nhiều.
Công tác chăn nuôi mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết và dịch bệnh song vẫn đạt tăng trưởng khá. Tỷ trọng cơ cấu giá trị ngành chăn nuôi chiếm khoảng 26-27% trong cơ cấu chung của ngành nông nghiệp; tăng trưởng hàng năm đạt khoảng 7,5%, đầu con gia súc tăng 4%/năm, cơ bản bao vây, xử lý không để dịch bệnh lây lan trên địa bàn.
Việc đổi mới quan hệ sản xuất cũng được quan tâm triển khai với việc thực hiện sắp xếp các nông, lâm trường Quốc doanh theo Nghị định số 170/2004/NĐ-CP, Nghị định số 200/2004/NĐ-CP của Chính phủ; Quyết định số 98/2007/QĐ-CP của Chính phủ; đến nay đã có 2/5 đơn vị chuyển đổi xong là Nông trường Cao Phong chuyển thành Công ty Rau quả nông sản Cao Phong và Nông trường Cửu Long chuyển thành Công ty sản xuất và chế biến dịch vụ Cửu Long. Hiện đã có 156 hợp tác xã nông nghiệp được chuyển đổi và hoạt động theo Luật Hợp tác xã trên các lĩnh vực sản xuất, nông lâm nghiệp và dịch vụ. Qua tổng điều tra, toàn tỉnh có 532 trang trại đạt tiêu chí hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TU về phát triển nông nghiệp, nông thôn, kinh tế nông nghiệp và nông thôn tỉnh ta có bước phát triển mới; giá trị sản xuất ngành nông nghiệp hàng năm đều tăng, cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi bước đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa và tạo vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, tạo điều kiện để công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn có bước phát triển, góp phần quan trọng vào sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Năm 2009 đã giải quyết việc làm cho 16.500 lao động nông thôn, năm 2010 ước giải quyết việc làm cho 16.600 lao động. Tỷ lệ hộ dân nông thôn được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đến năm 2009 đạt 76% (năm 2010 ước đạt 80%). Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 đã giảm xuống dưới 14% (năm 2010). Cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn thường xuyên được đầu tư nâng cấp đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân trong sản xuất kinh tế và đời sống, sinh hoạt.