
Cụ thể, trong năm học 2023-2024, ngành GD&ĐT đã tích cực tham mưu với cấp ủy, chính quyền ban hành các văn bản thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TU, ngày 29/6/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Quyết định số 2752/QĐ-UBND ngày 28/11/2023 của UBND tỉnh về “Tăng cường nguồn lực phát triển giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới trên địa bàn tỉnh Hoà Bình, giai đoạn 2023-2030”. Tham mưu với cấp ủy Đảng, Chính quyền, phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình hành động số 23-CTr/TU, ngày 23/01/2014 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướngxã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; báo cáo kết quả 40 năm thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng lĩnh vực giáo dục và đào tạo và các báo cáo tổng kết quan trọng khác; ban hành các văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học và phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chương trình GDPT 2018; tăng cường kỷ cương, nền nếp trong các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Chất lượng giáo dục tiếp tục được duy trì. Đối với cấp mầm non, kết thúc năm học đã huy động 55.400/71.368 trẻ, đạt tỷ lệ 77,63% (tỷ lệ ra lớp tăng 0,45%). Đối với cấp tiểu học, học sinh hoàn thành chương trình lớp 1, 2, 3, 4 là 62.690/63.908 đạt tỷ lệ 98.1% (tăng 0.3% so với năm học 2022-2023), học sinh được xét hoàn thành chương trình lớp 5 là 17.422/17.506 đạt tỷ lệ 99,52% (tăng 0,5%). Đối với giáo dục trung học, thực hiện có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng dạy học bám sát đối tượng, phụ đạo học sinh yếu kém, bồi dưỡng học sinh khá giỏi góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đối với giáo dục thường xuyên, năm học 2023-2024 đã huy động được 149 lớp với 5.588 học viên học chương trình GDTX cấp THPT (tăng 13 lớp với 376 học viên), mở rộng việc dạy văn hóa kết hợp với dạy nghề, tổ chức thực hiện chương trình giáo dục khởi nghiệp tại cơ sở GDNN-GDTX, tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới ra đề, thi, kiểm tra đánh giá học viên; chất lượng hai mặt giáo dục tiếp tục được củng cố. Đối với Giáo dục chuyên nghiệp, có 56 lớp với tổng số 1.934 trẻ, học sinh, sinh viên. Nhà trường đẩy mạnh công tác tuyển sinh; tiếp tục thực hiện việc đổi mới công tác quản lý giáo dục; tăng cường và củng cố kỷ cương, nề nếp; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên, giáo viên.
100% cơ sở giáo dục mầm non bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn về thể chất và tinh thần, không có ngộ độc, tai nạn thương tích xảy ra. Triển khai thực hiện giảng dạy sách giáo khoa và tài liệu giáo dục địa phương lớp 4,8,11 hiệu quả, đảm bảo tiến độ, đúng theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, đồng thời chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện để triển khai giảng dạy sách giáo khoa và tài liệu giáo dục địa phương lớp 5,9,12 trong năm học 2024-2025. Tham gia kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia đạt 42 giải, trong đó có 01 giải Nhất, 04 giải Nhì, 12 giải Ba và 25 giải Khuyến khích (tăng 14 giải so với năm học 2022-2023), trong đó một số bộ môn sau nhiều năm mới có giải và sau nhiều năm tỉnh Hòa Bình mới có giải Nhất. Tham gia Cuộc thi nghiên cứu khoa học, kỹ thuật cấp quốc gia học sinh trung học năm học 2023-2024 đạt 02 giải, trong đó có 01 giải Ba và 01 giải triển vọng. Tham gia thi thể dục thể thao cấp quốc gia đạt nhiều thành tích cao.
Công tác đầu tư xây dựng, bổ sung cơ sở vật chất tiếp tục được quan tâm. Kết quả thực hiện các mục tiêu xây dựng xã hội học tập đều đạt và vượt kế hoạch. Công tác xây dựng nông thôn mới lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục được quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Toàn tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3; phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2. Đến nay toàn tỉnh có 80/129 xã đạt tiêu chí số 5 về trường học đạt 62% (tăng 13 xã so với năm 2022 bằng 10,1%), có 128/129 xã đạt tiêu chí số 14 về giáo dục (chỉ tiêu 14.1, 14.2) đạt 99,2% góp phần cùng với toàn tỉnh hoàn thành kế hoạch xây dựng nông thôn mới đã đề ra.
Chất lượng phổ cập giáo dục (PCGD), xóa mù chữ (XMC) tiếp tục được duy trì, củng cố. Tại thời điểm tháng 12/2023, toàn tỉnh có 151/151 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn về PCGD Mầm non cho trẻ 5 tuổi; 150/151 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn PCGD Tiểu học mức độ 3 (giảm 01 xã so với năm 2022), 01/151 xã đạt chuẩn PCGD Tiểu học mức độ 2; 05/151 xã đạt chuẩn PCGD THCS mức độ 2 chiếm 3,3%, 146/151 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn PCGD THCS mức độ 3 đạt 96,68% (tăng 01 xã so với năm 2022); 01/151 xã đạt chuẩn XMC mức độ 1 chiếm 0,66%, 150/151 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn XMC mức độ 2 đạt 99.44% (giữ vững tỷ lệ so với năm 2022). Toàn tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi; đạt chuẩn PCGD tiểu học mức độ 3; đạt chuẩn PCGD THCS mức độ 2 (09/10 huyện, thành phố đạt chuẩn PCGD THCS mức độ 3, 01 huyện đạt chuẩn PCGD THCS mức độ 2); đạt chuẩn phổ cập xóa mù chữ mức độ 2.
Thực hiện đầy đủ chế độ chính sách cho cán bộ, giáo viên, nhân viên và HSSV. Đặc biệt là chế độ, chính sách ưu đãi đối với học sinh diện chính sách xã hội, học sinh vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, quan tâm tạo cơ hội học tập cho học sinh khuyết tật. Tập trung bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo viên thông qua thực hành thực tế tại lớp học, đặc biệt là bồi dưỡng các nội dung chuẩn bị cho việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới.
Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm bám sát sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT và Thanh tra tỉnh Hòa Bình. Nội dung thanh tra, kiểm tra tập trung công tác quản lý, các vấn đề bức xúc xảy ra tại địa phương, những vấn đề xã hội đang quan tâm.
Tuy nhiên việc quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế. Công tác xã hội hóa giáo dục còn gặp nhiều khó khăn. Chế độ, chính sách đối với giáo viên mầm non còn bất cập, chưa tương ứng với giáo viên các bậc học khác. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tại một số nhà trường chưa bảo đảm. Công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia còn gặp nhiều khó khăn. Một số địa phương có tỷ lệ trường đạt chuẩn thấp. Công tác phân luồng trong giáo dục còn hạn chế, công tác giáo dục hướng nghiệp chưa thực sự hiệu quả.../.