
Học để giữ lòng tự trọng
Học để làm người, đó là nguyên tắc bất di bất dịch của người Dao bản Đằng Long từ bao đời nay. Họ cho rằng, học gắn liền với cả đời người, nên con cái sinh ra lớn lên đều phải theo học. Học để biết đọc, biết viết chữ và biết về nguồn gốc của ông bà tổ tiên. Trước kia, lớp học quy định chỉ những người trên 15 tuổi trở lên mới được làm lễ xin gia nhập cửa thầy. Bây giờ thì khác rồi, ai cũng có quyền được học, được đến thầy. Chính vì vậy mà hơn chục năm nay lớp học của ông Triển luôn đông đúc người đến học.
Nội dung bài giảng rất phong phú. Thông thường mỗi tiết học ông thường phân theo từng lứa tuổi. “Trẻ con học chữ để biết đọc, viết, biết nguồn gốc xuất xứ tổ tiên thì phải dạy đọc, viết, đánh vần từng chữ một. Người lớn học để biết lẽ phải, lẽ sống tôi lại dạy theo nội dung của những câu tục ngữ, ca dao. Người già đi học để giữ lòng tự trọng và truyền dạy cho con cháu sau này đó là những lẽ phải trong cuộc sống”, ông Triển cho biết.
Bản Đằng Long nhỏ như lòng bàn tay. Khi chúng tôi đến cũng là lúc lớp học bắt đầu. Từ phía đầu làng, chúng tôi đã nghe tiếng lớp học vọng xa xa trong màn đêm tĩnh lặng, rồi chìm sâu trong bóng tối của núi rừng. Trẻ con thích thú, thể hiện cho chúng tôi nghe bằng việc đọc thật to các câu chữ mà thầy giáo vừa dạy. Còn người già tỏ ra ngại ngùng. Tôi hỏi cụ Triệu Thị Hưởng (76 tuổi) sao không đọc nữa? Nhiều tuổi thế cụ đi học làm gì nữa? Cụ bảo: Ở đây ai cũng đi học cả. Học để biết chữ mà đọc, để biết về cái sai, cái đúng. Mình không đi học dễ mắc phải luật tục của làng.
Tôi hỏi luật tục đó như thế nào? Bà Hưởng cho biết, luật tục này đã tồn tại từ lâu, không ai biết có từ bao giờ và ai đặt ra nó. Những người cao niên trong làng chỉ biết rằng đến nay nó vẫn tồn tại như một quy ước chung. Nếu ai phạm phải đều bị hình phạt thích đáng. Như bẻ trộm một cây măng, dù to hay nhỏ cũng đều bị phạt 5kg thóc. Con trai, gái lớn hỗn láo, khi đám cưới hàng xóm không ai đến chia vui. Mức độ phạt được tính theo mức độ tội vi phạm. Như đánh bài ăn tiền bị bắt được thì tịch thu hết tiền, sau đó mỗi người phải nộp cho làng 15kg thóc.
Theo hương ước của làng ghi lại, lớp học này không bao giờ được phá bỏ, nó là những gì mà ông bà tổ tiên để lại cho con cháu sau này. Con cái lớn lên bắt buộc phải học, ai không học đồng nghĩa với việc người đó dù có sức khoẻ, làm nhiều cũng không khấm khá lên được. Trong cuộc sống của người Dao bản Đằng Long, lòng tự trọng luôn được đặt lên hàng đầu. Tự trọng thể hiện một sức sống mãnh liệt của người dân, nó được ăn sâu vào nhận thức, hay có thể nói là nét văn hoá của người Dao. “Dù thế nào chăng nữa, bản chất của người Dao bản Đằng Long là phải sống chân thực như cây cổ thụ trên núi cao, trong như nước suối dưới khe. Không ai làm điều sai trái để đánh mất đi lòng tự trọng của mình, để không ngẩng mặt lên nhìn hàng xóm được”, cụ Hưởng nói.
Quy ước của làng
Chúng tôi may mắn được tham gia lớp học đặc biệt này. Cảm nhận ban đầu đối với tôi là sự nhiệt tình, hào hứng tham gia lớp học của người dân Đằng Long. Tiếng trẻ con ê a đánh vần theo bài giảng của thầy Triển. Người lớn học những câu ca dao, tục ngữ răn đời. Tham gia lớp học, tôi được người già dịch lại nội dung bài giảng buổi tối hôm đó từ chữ Hán sang tiếng phổ thông: “Xưa nay chưa khai thiên lập địa, có trời có đất. Giờ mọc lên con người, con người phải biết ăn học…”.
Trong giờ giải lao, ông Triển tự hào khoe: Hoà Bình là vùng đất có nhiều dân tộc sinh sống, trong số đó người Dao chiếm số đông nằm rải rác trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, các bản người Dao khác không đâu có lớp học như ở Đằng Long.
Không chỉ dạy về cách làm người, ông Triển còn dạy cho người dân biết cách làm ăn, phát triển kinh tế từ khâu trồng trọt, chăn nuôi thế nào cho đúng quy cách, kỹ thuật. Tôi hỏi, làm thế nào để ông biết kiến thức này mà giảng dạy? Ông Triển cười cho biết, tất cả những gì ông dạy người dân đều nằm trong “kho” tài liệu mà ông bà tổ tiên để lại. Hơn nữa, ông luôn sưu tầm sách cổ bằng chữ Hán, tìm ra những nội dung phong phú phù hợp với người dân để truyền lại.
“Tôi không phải là người dạy đâu. Đúng ra tôi chỉ là người truyền lại những gì trong sách mà ông bà tổ tiên để lại cho con cháu thôi. Tôi phải dạy chúng nó biết đọc, biết viết chữ của đồng bào mình để chúng nó tự học và hiểu. Không sau này tôi có chết đi chúng nó lại không biết gì về nguồn gốc tổ tiên, con cái hư hỏng hết lại khổ”, ông Triển khiêm tốn nói.
Ông dẫn chứng, ngày trước khi lớp học chưa được thành lập cũng có nhiều người phạm luật lắm. Trường hợp chị Phùng Thị H là 1 vú dụ. Phong tục của làng, anh em cùng huyết thống không được lấy nhau. Tuy nhiên, không hiểu lý do gì chị H lại mang lòng yêu anh họ của mình là Triệu Văn L. Chỉ khi hai người mang bầu với nhau dân làng mới vỡ lẽ. Khi bị phát hiện, chị H bỏ nhà ra đi. Mùa vụ năm ấy dân làng mất trắng vì hạn hán. Đúng theo quy ước của làng phải tìm bằng được chị H về làm lễ nộp vạ thì dân làng mới hết cảnh bị người âm hành hạ. Đợt đó anh L bị phạt vạ 50kg lợn, chị H phải nộp cả tạ gạo và rượu để tạ lễ với làng xóm.