Là cao nguyên đá duy nhất ở Việt Nam, có diện tích 3.500 km2, cho đến nay Ðồng Văn hầu như còn giữ nguyên vẻ hoang sơ, với nhiều giá trị về địa tầng, địa chất, động thực vật, giàu tiềm năng khoáng sản... Ðặc biệt, Ðồng Văn còn là nơi đang lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng 23 dân tộc anh em sinh sống ở đây. Và tháng 10-2010 vừa qua, cao nguyên Ðồng Văn đã được UNESCO công nhận là Công viên địa chất toàn cầu (GGN)...
Trở lại Ðồng Văn lần này, tình cảm và ý nghĩ của tôi không giống các lần trước. Bởi tôi không chỉ lên cao nguyên đá như tên gọi trước đây, mà đang lên nơi là thành viên nằm trong mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu (GGN), danh hiệu mà tại Lesvos (Hy Lạp) vừa qua, UNESCO quyết định công nhận. Ðây là Công viên địa chất duy nhất ở Việt Nam vào thời điểm này, là Công viên địa chất thứ hai ở Ðông - Nam Á. Sau bữa cơm buổi chiều, phố cổ Ðồng Văn chầm chậm vào đêm. Những ngọn đèn đường lung linh trong màn sương mờ ảo. Khoảng chín giờ tối, phố huyện trở nên vắng vẻ, đêm cao nguyên nồng nàn trong men rượu bắp, hương thơm từ cánh rừng Mã Lủ theo gió dìu dịu... Ngắm Ðồng Văn trong đêm, tôi biết có thể rất lâu nữa mới tìm được cảm xúc nhiều đến thế. Lên với cao nguyên đá Ðồng Văn là lên với vùng đá cổ, vùng đá mẹ đã làm nên địa đầu Tổ quốc và hình hài đất nước. Bởi vậy ở đây, đá như có số phận, đá như có linh hồn. Với Ðồng Văn, hành trình một đời người, hành trình một cộng đồng gắn liền với đá. Một sinh linh bé nhỏ ra đời, núm ruột hồng vùi vào trong đá. Nhà dựng trên đá có bờ rào đá bao bọc. Trai gái yêu nhau, lại ngồi trên đá thổi kèn lá dưới ánh trăng khuya. Trẻ em muốn khỏe mạnh thông minh, gia đình dâng lễ vật cầu thần đá che chở, phù hộ. Khi con người về với tổ tiên, cũng được đá bao bọc. Ðá làm nên cuộc sống, để mỗi cây ngô cũng mọc lên từ hốc đá. Rồi các lễ hội truyền thống, những phiên chợ quanh năm rực rỡ, nồng nàn, được mở ra trên đá,... Giả dụ nếu không có đá, có lẽ lại khó có thể hình dung về người và đất Ðồng Văn...
Ðường từ Ðồng Văn sang Mèo Vạc dốc và gập ghềnh, nhiều 'cua tay áo'. Dù đã nhiều lần đứng trên đỉnh Mã Pì Lèng - 'sống mũi ngựa', mà tôi vẫn không khỏi kinh ngạc vì sự kỳ vĩ của nó. Cách đây hàng trăm năm, có nhà khoa học người Pháp đến đây đã phải thốt lên: 'Một tượng đài địa chất'. Núi non Mèo Vạc chia cắt mạnh, thiên nhiên khắc nghiệt. Lúc nắng gió, lúc băng giá, vậy mà câu dân ca gập ghềnh, dài như bếp lửa khuya, vẫn được người cao tuổi kể cho con cháu rằng: Con chim có tổ - Người Mông ta có quê - Quê ta là Mèo Vạc... Cũng là cách truyền lửa ấm cho thế hệ sau, giữ lấy tình yêu thương cộng đồng.
Ðịa hình Ðồng Văn thấp dần từ bắc xuống nam, từ đông - bắc xuống tây - bắc. Các nhà khoa học cổ sinh địa tầng và cấu trúc địa chất đã khám phá được các trầm tích có tuổi rất xa xưa. Ở Ðồng Văn, kiểu địa hình cao nguyên núi đá độ cao từ 701 m đến 1.700 m chiếm 51% diện tích, kiểu địa hình núi thấp độ cao từ 301 m đến 700 m chiếm 42% diện tích, còn kiểu địa hình đồi phân bố xen kẽ giữa các dãy núi thấp và thung lũng sông suối chiếm 3%, kiểu địa hình thung lũng chiếm 4% diện tích tự nhiên. Có hai con sông chảy qua là sông Nho Quế (còn gọi là Phổ Mai Hà), sông Miện và nhiều dòng suối lớn, phân bổ đều khắp trên địa bàn bốn huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Ðồng Văn, Mèo Vạc. Ðịa tầng được phân chia thành 11 hệ tầng, về cổ sinh với 17 nhóm hóa thạch đặc trưng với gần 1.000 loài, trong đó có loài cá cổ phát hiện sớm nhất ở Việt Nam, cùng với 45 di sản địa mạo, 33 di sản kiến tạo... Tất cả đủ nói lên tính đa dạng về địa chất, khả năng bảo tồn các vùng đá trầm tích trên cao nguyên Ðồng Văn. Ðối với Ðông - Nam Á, Ðồng Văn lại có nhiều điểm nổi bật, cụ thể là độ dày của các vỉa đá vôi có thể lên tới 4.000 m. Ngoài ra, địa mạo cũng rất hấp dẫn, với nhiều kiểu địa hình: rừng đá, vườn đá, thú đá,... trải rộng trên một không gian lớn, có giá trị tham quan, nghiên cứu văn hóa độc đáo...
Cao nguyên đá Ðồng Văn gắn liền với những cổng trời. Theo quốc lộ 4C ngược lên phía bắc, thử sức đầu tiên với con người là đèo Pác Xum. Theo cách giải thích của người Mông thì Pác Xum nghĩa là 'trùng trùng miệng hố, bờ vực'. Hết con đèo này, sẽ chạm vào đất Quản Bạ. Cổng trời Quản Bạ, còn gọi là cổng Thiên Ðàng, bốn mùa gió núi, mù sương, nhiệt độ trung bình 20-23oC, mát mẻ quanh năm, có thể so với Sa Pa, Ðà Lạt... Qua sông Tráng Kìm ghềnh thác, là gặp cổng trời Cán Tỷ đầy thách thức về chiều dài và mức độ hiểm trở. Chẳng thế mà ngày trước, cánh lái xe qua đây lại gọi chệch cổng trời Cán Tỷ thành... 'cổng trời chối tỷ'! Dù đến Yên Minh sẽ rút ngắn được mấy chục cây số, nhưng ngành giao thông đã bỏ con đường này, mở tuyến đường khác ven tả ngạn sông Tráng Kìm ngược lên thuận lợi hơn. Từ ngã ba Viềng - Yên Minh, cao nguyên đá mới thật sự ấn tượng, choáng ngợp. Ðá phơi bày không giấu giếm với tất cả dáng vẻ và sự kỳ vĩ của nó. Ðá trải dài cuồn cuộn như không có điểm dừng. Những đỉnh núi trần trụi xám lạnh chĩa lên trời nhọn hoắt. Qua cổng trời Thẩm Mã, dốc Chín Khoanh, cổng trời Sà Phìn đột ngột xuất hiện như trong câu chuyện kỳ bí. Vùng đá kéo qua di tích nhà họ Vương, qua Lũng Hòa, Pải Lủng, Mã Pì Lèng... Cả một vùng núi dữ dội. Những nương đá, rừng đá, vách đá nối tiếp mê mải...
Mấy năm trước, Vụ Lữ hành - Tổng cục Du lịch Việt Nam đã lên khảo sát kỹ để giúp Hà Giang phát triển, mở mang ngành du lịch, đặc biệt là lộ trình: Hà Giang - Cổng Trời - Mèo Vạc - Ðồng Văn - Lũng Cú. Các nhà chuyên môn đều thống nhất nhận định, con đường đẹp hàng đầu ở Việt Nam, có lẽ là tuyến đường từ Mèo Vạc đi Ðồng Văn. Ðây là kiệt tác trên đá do con người tạo ra trong nhiều năm. Biết bao công sức, xương máu của người Hà Giang đã đổ xuống để xây dựng con đường huyền thoại này. Ðường ngoằn ngoèo hiểm trở, quanh co trên đỉnh núi nhưng lại cho phép chiêm ngưỡng những quang cảnh ngoạn mục, thật sự gây ấn tượng mạnh mẽ. Một du khách nước ngoài từng so sánh cao nguyên Ðồng Văn cùng sắc mầu y phục, đồ trang sức của phụ nữ nơi đây mà quả quyết: sức hấp dẫn của nó không hề thua kém Vịnh Hạ Long. Ðiều này cũng dễ hiểu, trong số 23 dân tộc anh em đang sinh sống ở Hà Giang, thì có bốn dân tộc thiểu số chỉ có ở Hà Giang. Ðó là La Chí, Pà Thẻn, Bố Y, Pu Péo. Ðây là các cộng đồng người có dân số còn rất ít, chỉ từ khoảng 400 người đến 1.000 người. Nhưng đó lại là những tộc người còn lưu giữ được nền văn hóa rất đặc sắc, cả về chữ viết, sắc phục, lễ nghi... Trên cao nguyên đá Ðồng Văn, dân tộc Mông chiếm 80% trong tổng số khoảng 250 nghìn người, còn dân tộc Lô Lô có dân số ít hơn - khoảng 1.500 người nhưng lại là dân tộc đi đầu trong việc khai khẩn đất đai, tạo nguồn sinh sống. Nên hiện nay đồng bào Tày, Mông ở Hà Giang và Cao Bằng, khi làm ruộng làm nương vẫn còn phong tục cúng 'ma Lô Lô'.
Với các yếu tố tự nhiên, nguồn tài nguyên địa chất, văn hóa truyền thống đặc sắc, cao nguyên đá Ðồng Văn đủ điều kiện xây dựng, phát triển công viên địa chất tầm cỡ khu vực và quốc tế. Việc xây dựng, phát triển công viên địa chất cao nguyên đá Ðồng Văn theo ý kiến của các nhà khoa học cần hướng tới một số mục tiêu: Bảo tồn giá trị di sản địa chất, sự đa dạng sinh học, khảo cổ lịch sử, văn hóa của khu vực; quảng bá nâng cao nhận thức cộng đồng về khoa học trái đất; giáo dục lòng yêu thiên nhiên, trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ, khai thác bền vững các di sản địa chất; thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững như du lịch địa chất, du lịch sinh thái và các hoạt động kinh tế phụ trợ, tạo nguồn thu nhập bổ sung góp phần xóa đói, giảm nghèo cho người dân...
Do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cho nên diện tích đất đai canh tác ở Ðồng Văn không nhiều, chiếm 15% diện tích. Rồi mùa đông rét đậm, thường có tuyết và băng giá; còn mùa khô kéo dài đến sáu tháng, nên được xác định là vùng khô hạn, hiếm mưa nhất trên cả nước. Do vậy, độ che phủ của rừng chỉ hơn 20%, cây trồng năng suất thấp, giao thông đi lại khó khăn, nên những năm trước, cuộc sống của đồng bào trên cao nguyên đá Ðồng Văn rất khó khăn. Từ thực tế đó, tỉnh Hà Giang đã triển khai nhiều kế hoạch kinh tế - xã hội, với sự đầu tư lớn của Nhà nước, nhằm đẩy nhanh công cuộc xóa đói, giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đó du lịch được xem là một trong những ngành kinh tế có rất nhiều lợi thế. Ngoài những danh lam thắng cảnh nổi tiếng, du lịch ở Ðồng Văn là đến với một số lễ hội, sinh hoạt văn hóa cộng đồng độc đáo, kết hợp với du lịch mạo hiểm leo núi, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh...
Cao nguyên đá Ðồng Văn, diện mạo và tầm vóc của vùng đất như ngời lên trong câu thơ: Tổ quốc nơi đây tượng hình từ đá - Từ bếp lửa khuya chưa tắt bao giờ - Tôi thấm hết nghĩa tình nơi cực bắc - Ðể lòng mình không thẹn trước hoa lê... Lại nhớ lời của bà Ka-thê-ri-ne Mu-lê Ma-rin - Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO tại Hà Nội, đã nói: 'Cao nguyên đá Ðồng Văn cùng với những hình ảnh khác như Vịnh Hạ Long sẽ góp phần quảng bá hình ảnh của Việt Nam, mở ra cơ hội biến đá thành nguồn thu nhập chính của người dân'. Do vậy, tôi lại mong Hà Giang sớm có kế hoạch phát triển tổng thể, với mục tiêu tăng cường sự tham gia của mọi người dân để bảo tồn các giá trị di sản địa chất, văn hóa, tạo nên sự phát triển bền vững của một vùng đất mà ai đã đến đây một lần, sẽ không thể nào quên...