
5 năm qua, huyện đã tập trung thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, ban hành 3 Đề án với nhiều chính sách đầu tư, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời chỉ đạo các địa phương thực hiện sản xuất đúng thời vụ. Từ đó, sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định và có bước tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 4,8%/năm.
Lĩnh vực trồng trọt đạt tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm là 4,7%. Huyện đã tập trung nghiên cứu và từng bước phát triển các cây trồng chính phù hợp với thổ nhưỡng và khí hậu địa phương. Đồng thời hình thành các vùng sản xuất quy mô lớn, tập trung, xây dựng các mô hình hợp tác gắn với thị trường, phát huy lợi thế của từng địa phương. Trong giai đoạn 2015-2020, diện tích cây ăn quả phát triển mạnh, tăng 1.038 ha, công tác dồn điền đổi thửa đạt trên 1.100 ha tại 8 xã. Huyện đã triển khai đồng bộ các giải pháp về kỹ thuật, hỗ trợ phát triển sản xuất, chứng nhận an toàn thực phẩm, xúc tiến thương mại và quảng bá sản phẩm. Qua đó, năng suất, chất lượng sản phẩm ngày một đáp ứng với yêu cầu của thị trường. Thời điểm năm 2015, toàn huyện chưa có sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng. Năm 2020, đã có gần 200 ha cây ăn quả có múi đạt tiêu chuẩn an toàn và VietGAP; 34 ha nhãn đạt tiêu chuẩn an toàn; 20 ha rau đạt tiêu chuẩn an toàn và PGS, có 5 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP đạt 3 sao… Bên cạnh đó, nhiều HTX, doanh nghiệp ra đời và phát triển sản xuất theo chuỗi liễn kết, tiêu biểu như: Chuỗi cấy ăn quả có múi, chuỗi ngô ngọt, chuỗi cây dược liệu, chanh leo... Việc đưa ứng dụng khoa học công nghiệp trong sản xuất nông nghiệp được triển khai tích cực, có trên 90% diện tích canh tác được làm đất bằng máy cơ giới, 6,2 % tỷ lệ cây trồng được thu hoạch bằng máy. Từ đó, đã góp phần quan trọng vào việc thay đổi cơ cấu, tập quán canh tác và tăng hiệu quả sản xuất. Giá trị sản phẩm thu được trên 1 đơn vị canh tác ngày càng tăng. Năm 2015 đạt 112,3 triệu đồng, đến năm 2020 ước khoảng 155,1 triệu đồng.
Ngành chăn nuôi của huyện đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 7,5%/năm. Số lượng gia sức, gia cầm tiếp tục tăng qua các năm. Trong đó, tổng đàn gia súc trên 152.000 con, tổng đàn gia cầm trên 1.960.000 con. Hàng năm, các biện pháp phòng chống dịch bệnh, tiêm phòng được quan tâm thực hiện nên tình hình dịch bệnh được khống chế kịp thời, không để lây lan diện rộng. Ngoài ra, huyện chủ động cung ứng thức ăn tại chỗ cho gia sức, gia cầm, triển khai Đề án trồng cỏ vỗ béo đàn bò góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp, từng bước thay đổi tập quán sản xuất tự phát của nhân dân.
Đặc biệt, công tác chăm sóc, trồng rừng và bảo vệ rừng tự nhiên của huyện Kim Bôi thực hiện tốt, không xảy ra tình trạng chặt phá rừng, buôn bán lâm sản trái phép. Diện tích rừng trồng mới sau khai thác bình quân đạt 1.158 ha/năm, tỷ lệ che phủ rừng từ 48-50%.
Ngoài ra, huyện luôn quan tâm, nâng cấp, bảo dưỡng các hệ thống tưới tiêu trên địa bàn. Chương trình toàn dân làm chiến dịch thủy lợi được duy trì 2 lần/năm, tỷ lệ đường trục chính nội động được cứng hóa 208 km, đạt 49%. Kim Bôi hiện có 63 hồ chứa nước, 175 bai dâng nước, 16 trạm bơm, 425 km kênh mương, 83 công trình thủy lợi được nâng cấp, sửa chữa. Các công trình cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho người dân được quan tâm, đầu tư xây mới, tu sửa, nâng cấp và đã đáp ứng 95% nhu câu sử dụng nước sạch của nhân dân trên địa bàn.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, sản xuất nông- lâm nghiếp huyện Kim Bôi còn gặp một số hạn chế, nhất là trong liên kết kinh doanh, xây dựng thương hiệu, và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Do đó, trong nhiệm kỳ tới, huyện chủ trương thực hiện hiệu quả việc dồn điền, đổi thửa, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật để thâm canh, tăng cao giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích. Tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, hướng tới các sản phẩm chất lượng, an toàn để phục vụ nhu cầu người tiêu dùng. Xây dựng và phát triển các Nhãn hiệu tập thể các sản phẩm tiêu chuẩn, sản phẩm OCOP... Nâng cao vai trò của các Doanh nghiệp, Hợp tác xã và trang trại. Thu hút nguồn lực để đầu tư và hoàn thiện hạ tầng thiết yếu như hệ thống tưới tiêu, nhà sơ chế, nhà lưới… Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án Tái cơ cấu ngành, các Đề án nông nghiệp chuyên đề và các chính sách hỗ trợ trong lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt và lâm nghiệp./.