DetailController

Thủy sản

Hiện trạng và hướng phát triển thủy sản ở Hồ thuỷ điện Hòa Bình

15/12/2009 00:00

Hồ thủy điện Hòa Bình xây dựng trên sông Đà ngăn đập giữ nước từ năm 1986. Chiều dài hồ kể từ đập chính tại thị xã Hòa Bình đến Tạ Pú, Sơn La là 230 km, diện tích ngập nước có thể phát triển thủy sản là 16.790 ha. Trong lòng hồ có hệ sinh thái đa dạng, phong phú, bao gồm các loài thủy sinh vật đại diện cho cả 2 vùng sinh thái là đồng bằng và miền núi sinh sống với 123 loài thủy sản thuộc 79 giống, 19 họ trong đó nhiều loài có khả năng sinh sản tự nhiên.

Trải qua 20 năm, việc khai thác, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản đã đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết cho các nhà quản lý thủy sản địa phương.
Từ sau khi ngăn đập đến năm 1990 là giai đoạn đầu hồ mới ngập nước, các phương tiện, ngư cụ khai thác còn thô sơ, chủ yếu là thuyền nan, thuyền độc mộc, các loại ngư cụ là lưới mắt nhỏ, lưới có chiều cao lớn nhất mới đạt 5 m. Hình thức khai thác là câu dàn, câu mồi, xẻo... Các loại cá khai thác được chủ yếu là cá mương, ngão, vền..
Đến năm 2001, do khai thác quá mức, nguồn lợi thủy sản lại không đuợc thả bổ sung, khả năng khôi phục đàn thấp, nhiều bãi cá đẻ tự nhiên bị suy giảm, thay đổi hoặc mất. Đặc biệt là nhiều loài cá không có khả năng sinh sản tự nhiên tron ghồ giảm mạnh về số lượng cũng như kích cỡ, nhiều loài cá có nguy cơ cạn kiệt. Sản lượng khai thác hàng năm chỉ đạt 450 – 500 tấn, chủ yếu là các loaà cá tạp, cá mương, tôm sông.. Những loài cá có kích thước lớn từ 8 – 10 kg như mè, măng, chiên, lăng không còn.
Từ 2002 đến nay, sau thời gian gây áp lực về khai thác dẫn đến sản lượng khai thác giảm, đời sống của ngư dân quanh hồ gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ dân đã bỏ thuyền, lưới và chuyển sang nghề mới, trong đó có nghề nuôi cá lồng bè và dịch vụ trên hồ...
Nguyên nhân dẫn đến giảm sút nguồn lợi thủy sản lòng hồ sông Đà là do điều kiện kinh tế của người dân sống quanh vùng còn khó khăn, dân số tăng nhanh nên cường lực khai thác thủy sản ngày một tăng. Mặt khác do thiếu nhận thức trong việc bảo vệ nguồn lực thủy sản nên người dân đã dùng những phương tiện mang tính hủy diệt để khai thác làm cho nguồn lợi ngày càng suy giảm. Tron gkhi đó địa phương cũng chưa có cơ quan quản lý, hướng dẫn việc khai thác, bảo vệ nguồn lợi nên công tác bảo vệ nguồn lực thuỷ sản gần như bị bỏ ngỏ. Khi xây dựng đập thủy điện, nước ngập đã làm thay đổi điều kiện môi trường, ảnh hưởng đến điều kiện sống của một số loài thủy sản như làm thay đổi và mất đi bãi cá đẻ từ thị xã Hòa Bình đến Tạ Pú, Sơn La, làm giảm sản lượng cá giống bổ sung cho hồ. Ngoài ra trong quá trình phát rừng làm nương rẫy đã giảm lượng chất hữu cơ bổ sung làm thức ăn cho các loài thủy sản, đồng thời làm giảm độ che phủ rừng gây sạt lở, bồi lấp sông, suối vào mùa mưa lũ, cạn kiệt về mùa khô, ảnh hưởng đến các loài cá, đặc biệt là cá bản địa.
Trước thực trạng trên, năm 2002, Trung tâm thủy sản tỉnh Hòa Bình đã được thành lập với nhiệm vụ được giao là quản lý thủy sản trên địa bàn toàn tỉnh. Song do khó khăn về tài chính, nhân lực và kinh nghiệm quản lý nên các hoạt động quản lý nguồn lợi, nuôi, khai thác, phòng dịch bệnh và công tác khuyến ngư trên hồ còn nhiều hạn chế. Do vậy năm 2005, tỉnh Hòa Bình đã quyết dịnh thành lập Chi cụ Thủy sản để tăng cường quản lý thủy sản trên địa bàn tỉnh nói chùng và vùng lòng hồ nói riêng. Từ đó tình trạng người dân sử dụng mìn, kích điện để khai thác thủy sản đã dần được kiểm soát. Chi cục đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, tuyên truyền giáo dục cho người dân sống quanh hồ về công tác bảo vệ nguồn lực thủy sản, đồng thời tăng cường công tác khuyến ngư.. Từ đó đã tạo được sự thay đổi đáng kể trong nhận thức cuũngnhư trong quản lý, khai thác nguồn lợi thủy sản vùng lòng hồ.
Trước áp lực của việc khai thác, nhiều hình thức nuôi mới đã được người dân sống quanh hồ đưa vào áp dụng như nuôi cá lồng bè trên hồ và bước đầu đã đạt hiệu quả cao... Đặc biệt, từ năm 2002 đến nay, hàng năm tỉnh Hòa bình đã thả bổ sung vào lòng hồ từ 10 – 20 tấn cá giống các loại như cá mè trắng, mè hoa, rô phi vằn nhằm tái tạo nguồn lợi thủy sản.
Tuy nhiên để việc quản lý thủy sản vùng lòng hồ được tốt hơn trong thời gian tới, chính quyền địa phương cần từng bước khôi phục và phát triển nghề cá hồ chứa sông Đà theo hướng công nghiệp, sản xuất hàng hóa, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân quanh hồ. Trừng bước thay đổi cơ cấu kinh tế vùng ven hồ, đồng thời nâng cao dân trí, góp phần xóa đói giảm nghèo, tổ chức tốt việc bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản một cách hợp lý. Tập trung phát triển các giống, loài thuỷ sản có năng suất, giá trị kinh tế cao, đặc biệt là các loài thủy sản quý hiếm của địa phương. Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ từ cấp tỉnh, huyện xã về lĩnh vực bảo vệ nguồn lực thủy sản và môi trường. Làm tốt công tác khuyến ngư nhằm cung cấp đầy đủ thông tin, kỹ thuật và chính sách phát triển thuỷ sản cho cộng đồng dân cư sống quanh hồ.