Ba mươi lăm năm sau chiến tranh, những con người ngày xưa là kẻ thù đối đầu trong cuộc chiến, nay ngồi lại nói với nhau về thơ ca. Văn học xóa bỏ hận thù, đi tìm sự kết nối đầy thân thiện giữa hai dân tộc. Nhưng đó đã là một chặng đường dài với nhiều công việc và thành tựu mà các nhà văn Mỹ và Việt Nam làm được trong hơn 20 năm qua.
Trong khuôn khổ chương trình hoạt động năm ngày, chiều 29-5, các nhà văn Việt Nam và các nhà văn Mỹ đã có cuộc gặp gỡ tại Hội quán Trung Nguyên, 52 Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Các nhà văn, nhà thơ từ Mỹ như Kevin Bowen, Bruce Weigl, Martha Collins, Fred Marchants… cùng với các nhà văn Việt Nam Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Quang Thiều... và một số nhà văn, dịch giả Việt Nam từ Mỹ về đã cùng gặp gỡ và có những cuộc trao đổi, đọc thơ, trò chuyện rất thú vị.
Tại buổi gặp gỡ, các nhà văn Việt Nam và nhà văn Mỹ đã dành cho chúng tôi những cuộc trò chuyện ngắn. Sau đây là những ý kiến, tâm sự của họ.
Nhà văn Nguyễn Quang Thiều: Các nhà văn là sứ giả hòa bình
Chúng ta vừa trải qua 35 năm chiến tranh, 15 năm bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ, 20 năm kể từ cuộc gặp đầu tiên giữa các nhà văn Việt Nam và các nhà văn Mỹ. Khi mà quan hệ Việt Mỹ đang mở ra những bước tiến triển tốt, hội thảo này là một sự kiện đặc biệt và mang nhiều ý nghĩa.
Hội thảo nhằm nhìn nhận lại sau 35 năm, con đường văn học Việt Nam vào Mỹ như thế nào? Những nhà văn Mỹ ở đây, họ đã mang văn học Việt Nam vào Mỹ bằng cách nào? Họ đã gặp những khó khăn, nguy hiểm gì, những sự chống đối nào từ những người chưa hiểu về Việt Nam, những người con mang nặng thù hận từ quá khứ.

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều cùng với nhà thơ Bruce Weigl và nhà văn Nguyên Ngọc.
Qua Trung tâm William Joiner, nhiều tác phẩm văn học của Việt Nam đã được người Mỹ biết đến. Tôi được biết rằng, có một hệ thống tài liệu lưu trữ bằng microfilm rất dài, chứa trong đó những tài liệu trong ba lô người lính đã hy sinh, bị bắt, những tài liệu thất lạc. Khi các nhà văn ở trung tâm WJ đọc những tài liệu này, họ đã rất kinh ngạc: hình ảnh lặp đi lặp lại trong những trang viết của những người lính Việt Cộng là con chim bồ câu, và rất nhiều thơ. Họ nhận thấy trong những bài thơ là tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, lòng thủy chung đợi chờ, khát vọng hòa bình, vẻ đẹp của đất nước họ. Họ đã chọn lọc những bài thơ đó in thành tập, lấy tên là “Những bài thơ từ tài liệu bị bắt giữ”. Tập thơ đã bán chạy ở nước Mỹ.
Tôi nghĩ việc giới thiệu văn học Việt Nam với nước Mỹ là một hướng đi gần. Và chúng ta cần giới thiệu nhiều hơn nữa, dịch những tác phẩm thơ, văn, truyện ngắn, tiểu luận...
Có thể tôi không đợi chờ nhiều tính chất khoa học ở hội thảo, nhưng quan trọng là sự gặp gỡ, thời gian các nhà văn hai nước ngồi với nhau. Những người ngày xưa trong cuộc chiến sẵn sàng tiêu diệt nhau, nhưng giờ đây họ ngồi với nhau, có thể gọi một món ăn, trong một buổi tối ấm áp...
Xác lập sứ mệnh của văn học, đôi khi rất mơ hồ, khó nắm bắt, không giống như hợp tác kinh tế, nhưng lại rất quan trọng. Nhiều nhà văn Mỹ trong tham luận của mình đều nói rằng họ mắc nợ dân tộc Việt Nam.
Nhà văn Nguyên Ngọc: Văn chương đi tìm khuôn mặt con người

Tôi có nhớ một tác giả Mỹ nói: trong chiến tranh đối phương nhìn nhau không thấy khuôn mặt con người. Chỉ có kẻ thù và kẻ thù. Sau chiến tranh, làm thế nào khôi phục khuôn mặt con người, giữa hai bên? Không có cách gì làm tốt hơn là văn học.
Trung tâm W.J đã làm một công việc rất ý nghĩa: các nhà văn vốn là cựu chiến binh đã gặp nhau, trao đổi, hiểu nhau. Tôi biết việc này khi bắt đầu tiến hành là hết sức dũng cảm. Bởi các bạn biết không, ở bên Mỹ, họ cũng từng bị chống đối rất quyết liệt, bằng nhiều cách, bằng dư luận, bằng kích động những người tốt không hiểu, đánh bằng cả tài chính, bằng những vụ kiện moi móc để ra tòa.
Tôi có những người bạn rất thân ở đây, ví dụ Kevin Bowel, Heineman. Họ dám nhìn lại cuộc chiến tranh, dám đối phó với những phản ứng do không hiểu hoặc do xuất phát những động cơ không tốt để ngăn cản sự hàn gắn giữa hai dân tộc.
Cũng chính từ nhu cầu bức bách hòa giải dân tộc, mà người ta tìm đến văn học. Nhưng cũng chính từ đây, họ cũng hiểu Việt Nam có một nền văn hóa, một nền văn học. Và văn học Việt Nam cũng không chỉ có chiến tranh. Và chiếc cầu nối hòa giải này chỉ là một con đường để dẫn hai dân tộc, vốn từng là hai kẻ thù, khám phá ra hai nền văn hóa.
Bruce Weigl: Càng liên hệ nhiều với Việt Nam tôi càng hạnh phúc

Ngay từ khi là một người lính chiến đấu ở Việt Nam. Vào năm 18 tuổi, tôi biết rằng chiến tranh là một sai lầm. Chẳng có lý do gì để đi gây chiến với một dân tộc đáng yêu như dân tộc Việt Nam. Nên ngay từ ngày đó, tôi đã nghĩ rằng, một ngày nào đó tôi sẽ trở lại. Và tôi đã trở lại rất sớm, vào năm 1985, trước đổi mới ở Việt Nam. Thời điểm đó, tôi đã học tiếng Việt tại nhà, đã dịch thơ. Tôi nghĩ rằng nếu người Mỹ có thể đọc thơ của Việt Nam thì họ sẽ hiểu hơn bản chất của người Việt Nam. Tôi càng liên hệ, càng gặp nhiều người Việt Nam thì tôi càng hạnh phúc, và càng muốn làm gì đó vì Việt Nam. Nhưng tôi chỉ là một nhà thơ thôi, nên tôi nảy ra ý định nuôi một đứa trẻ mồ côi người Việt, tôi sẽ dạy dỗ nó và khi nó lớn lên và trở về Việt Nam. Vậy nên tôi đã có một đứa con nuôi, nó tên là Nguyễn Thị Hạnh, 23 tuổi. Bây giờ nó đã là cử nhân sinh học, đang học MBA. Nuôi dưỡng nó là món quà mà cuộc sống ban cho tôi. Tôi nuôi Hạnh từ năm 8 tuổi, nhưng để có nó trong nhà tôi vào thời điểm đó là một quá trình rất khó khăn.
Tôi đã viết nên câu chuyện này trong cuốn tiểu thuyết Circle of Hạnh.
Một trong những cách tôi học tiếng Việt là qua thi ca. Bởi vì tôi là một nhà thơ, nên tôi học ngôn ngữ dân tộc Việt Nam qua thơ. Tôi đặc biệt thích ca dao Việt Nam, và tôi đã muốn đưa ngôn ngữ ca dao đó vào trong thơ của tôi.
Khi tôi về hưu thì tôi và vợ tôi sẽ mua một cái nhà ở Hà Nội, để sống ở đây vào mùa đông. Tôi thích ở ngoại ô, có lẽ tôi sẽ mua một cái nhà bên cầu Long Biên.
Nhà thơ Kevin Bowel: Tôi hiểu Việt Nam qua các nhà thơ

Tôi rất vui mừng trở lại Việt Nam chỉ sau vài tháng. Tôi vui vì được gặp gỡ bạn bè, giao lưu với các nhà văn hóa của Việt Nam. Chúng tôi sẽ cùng xác lập những kế hoạch cho tương lai, và đơn giản, chỉ là ở đây với Việt Nam. Qua văn chương, các nhà văn không chỉ nói với nhau điều kiện vật chất, điều kiện xã hội, mà nói với nhau về tâm hồn. Không chỉ tìm hiểu sự khác biệt, các nhà văn học cách kết nối. Và các nhà văn thì vẫn tìm cách hiểu nhau, vì vậy họ có một vai trò rất quan trọng.
Tôi hiểu Việt Nam qua những người bạn Việt Nam là các nhà văn nhà thơ, họ đã sang Mỹ đọc thơ cho tôi nghe, trình diễn múa rối ở nhà tôi. Tôi cũng hiểu Việt Nam qua việc dịch những tác phẩm văn học.
Từ những tác phẩm này, tôi nhận ra văn học Việt Nam có một đặc điểm là rất gần gũi tự nhiên. Đó là những cái cảm nhận bên trong đối với bên ngoài, sự gắn kết của con người từ thế giới vật chất đến với thế giới tinh thần, tính tự nhiên, mặt tâm hồn con người trong tác phẩm.
Tôi thích đọc tuyển tập, thích thơ Nguyễn Quang Thiều, Ý Nhi. Họ có những tập thơ có một không hai trên thế giới. Tôi đọc rất nhiều và sẽ tiếp tục đọc. Tôi có nhiều bài thơ về nơi chốn và con người Việt. Cũng có bài thơ viết về chiến tranh, nhưng phần lớn là viết về vẻ đẹp của đất nước các bạn. Cuộc sống ở Việt Nam diễn ra ở ngoài đường, và chúng tôi cảm nhận rất rõ vẻ đẹp của đất nước này. Đó là vẻ đẹp của những cánh đồng lúa, của núi non, của những con đường... Có một điều tôi thấy thú vị là các nhà văn thì tham gia thêm các lĩnh vực nghệ thuật khác, nhưng ở Mỹ thì không có chuyện đó.