
1.Trong ngôi nhà sàn bình dị, ấm cúng của mình tại cái xóm nhỏ thuộc phường Thái Bình, thành phố Hòa Bình, rưng rưng mân mê cái núm ánh màu trầm tích của chiếc chiêng Khầm cổ, ông Nguyễn Văn Thực thủ thỉ: "Tôi phải lòng với âm thanh của chiêng cồng từ cái thuở còn là chú bé hạt mít".
Năm 17 tuổi, ông Thực chính thức có mặt trong đội văn nghệ của xã Thái Bình. Thời ấy, đất nước đang còn chia cắt. Ông Thực và các anh, chị em trong đội văn nghệ xã Thái Bình hăm hở mang tiếng cồng; tiếng chiêng; mang những câu Thường rang - bọ mẹng (dân ca) của xứ Mường đi cổ vũ những đoàn quân trùng điệp ra trận, nơi miền Nam ruột thịt đang kêu gọi.
Đưa chén nước mời khách, bà vợ ông Thực tủm tỉm kể rằng, ngày cưới con gái, thay vì thuê đám nhạc sống, nhạc chín cho thêm phần "sành điệu", thay vì mở băng cátxét với thứ nhạc "chát xình, chát bùm bùm" để giai gái trong bản nhảy "đít cô", "đít cậu" như thiên hạ, ông Thực lại mang cồng, mang chiêng ra đánh, gọi là chút "của hồi môn" tặng con gái rượu trước khi về nhà chồng. Chính vì cái đận "hơi bị…chẳng giống ai" ấy mà thiên hạ chẹp miệng với một câu chắc hơn đinh đóng cột, rằng thì là: "cái nhà ông Thực này rõ là cổ hủ!". Bởi thế cho nên, từ ngày ấy đến tận bây giờ, ông Thực "bị mang tiếng" là ÔNG CỔ HỦ! "Cái tích" về ông Thực "cổ hủ" nó là như vậy!
2. Ông Thực tâm sự, trải qua bao kiếp người; qua bao thế hệ, với đủ những thăng trầm biến ảo, nhưng người Mường sống mà không thể thiếu vắng âm thanh của tiếng cồng, tiếng chiêng được. Ấy thế nhưng, vào những năm 90 của thế kỷ trước, chung quanh ông Thực, vì miếng cơm manh áo, nhiều người đã phải "dứt ruột" đem bán cồng, chiêng, dẫu biết rằng làm thế là rất "không phải" với ông bà tổ tiên.
Chứng kiến cái cảnh "cồng chiêng - hồn cốt của ông bà tiên tổ" bị đem đi bán như một thứ hàng hóa cấp thấp, ông Thực xót xa lắm. Phải làm gì đây để cái cồng, cái chiêng không bị biến khỏi cuộc sống này? Phải làm gì đây để níu giữ hồn cốt của ông bà mà làm "của để dành" cho con, cho cháu chắt mai sau? Những câu hỏi ấy cứ đau đáu, day dứt trong ý thức của ông Thực.
Thế rồi, một ngày nọ, ông Thực đi đến quyết định: Phải tìm cách mua lại cái cồng, cái chiêng trước khi chúng bị thất tán. Không làm thế sẽ đắc tội với ông bà tiên tổ. Hiểu được nỗi lòng của ông Thuận, vợ con ông đã không những đồng ý mà còn góp công góp của hỗ trợ việc làm của ông, dù khi ấy gia cảnh họ khá nghèo.
Từ đấy, ông Thực cùng vợ con rong ruổi "trên từng cây số" để tìm mua bằng được cồng, chiêng. Lúc thì cha con ông Thực "sục sạo" ở đất Mường Bi. Khi thì ông Thực cùng vợ "lặn lội" tại đất Mường Thàng. Ngày thì các con ông "la cà" ở đất Mường Vang. Và hễ "ngửi" thấy "mùi" cồng, chiêng ở ngôi nhà sàn nào đó là lập tức họ lân la gạ gẫm, mua cho bằng được. Lại có khi, cả nhà ông Thực vượt đèo, băng suối trên đất Mường Động chỉ cốt sao mua bằng được cồng, chiêng, bất chấp giời đất trái tính trái nết mà nắng - mưa thất thường.
Mà dấu chân vợ chồng, con cái ông Thực đâu chỉ quanh quẩn ở cái tỉnh Hòa Bình. Họ còn tới những địa phương lân cận nếu ở đó có cư dân Mường sinh sống. Ấy là những đận ông Thực cơm nắm cơm đùm băng rừng vượt suối để lọ mọ tìm mua cồng, mua chiêng ở xứ Thanh Hóa; ở đất Sơn La.
Ông Thực kể, hễ cứ nghe phong thanh đâu đó có người rao bán cồng, chiêng là ông lập tức lên đường, chỉ với duy nhất một nỗi canh cánh: Nếu không nhanh chân, cồng, chiêng cổ của xứ Mường mình sẽ thành thứ đồ đồng nát!
Cũng có khi đến nơi, ông Thực có nhời hỏi mua thì gia chủ lại lắc đầu, nhất quyết không chịu bán. Như người ta thì tiếc công, tiếc sức, nhưng ông Thực lại khác. Ông mừng vì không mua được cồng, chiêng với cái nhẽ giản dị thế này: Thì ra, còn có những người mang dòng máu Mường tinh khôi vẫn muốn lưu giữ hồn cốt của tổ tiên mình!
3. Vừa lẩn mẩn đánh bóng chiếc khung nỏ ánh màu thời gian, bà Thực bộc bạch: Để có tiền đi đường, có tý lưng vốn "giắt hầu bao" mà mua cồng chiêng, thôi thì đủ thứ nông sản, rồi lợn gà…của vợ chồng bà cứ lần lượt "đội nón ra đi".
Ông Thực tủm tỉm: Những năm; những tháng vợ chồng con cái ông "đốc chứng" đi "săn lùng" cồng, chiêng, trong thiên hạ có khối anh cười mà rằng, vợ chồng con cái nhà ông Thực "gàn dở hết rồi".
Sau cái cười hiền dung dị, ông Thực bảo, mặc ai quy kết cho ông cái tội gàn dở, ông vẫn "việc ta ta làm". Đội mưa đội nắng; nhịn đói nhịn khát mua cồng, chiêng về, nhưng ông không để ngắm cho "thỏa chí tang bồng". Ông quyết chí thành lập đội dân ca đất Mường ngay tại cái thành phố Mường náo hoạt thời cơ chế thị trường.
Bà Thực phấn chấn khoe: Từ cái ngày đầu tiên ấy, giờ đội văn nghệ của chồng mình đã tròn 16 năm tuổi, với 18 nam, nữ thành viên.
Cứ theo cái lệ thường tự nhiên nhi nhiên, đều đặn vào ngày thứ bảy, các thành viên trong đội văn nghệ của ông Thực lại tề tựu đông đủ quanh bếp lửa nhà sàn luyện đánh cồng, đánh chiêng; rồi thì hát "sắc bùa", hát "bọ mẹng"; rồi thì luyện lại các điệu múa cổ truyền; rồi thì nghe ông Thực kể chuyện văn hóa Mường…v.v…
Dầu chỉ là đội văn nghệ "cây nhà lá vườn", nhưng trong bảng thành tích của đội đã lấp lánh 2 tấm Huy chương vàng trong cuộc thi Tiếng cồng cổ toàn quốc các năm 1998 và 2000. Ngoài ra là nhiều bằng khen giấy khen.
"Hữu xạ tự nhiên hương!", đến nay, "gánh cồng Mường" của ông Thực trở thành khách mời thường xuyên của nhiều điểm du lịch nổi tiếng trên đất Hòa Bình. Hơn thế, nó còn được tham gia nhiều cuộc liên hoan cồng, chiêng cấp tỉnh, cấp toàn quốc nữa.
4. Ông Thực bảo, trong bộ cồng, chiêng cổ gồm 17 chiếc của mình, ông trân trọng nhất chiếc chiêng Khầm. Nó là cái chiêng quý, hiếm nhất trong dàn chiêng. Bởi cái nhẽ, chỉ cần xoa nhẹ bàn tay vào "vú" chiêng là âm thanh độc nhất vô nhị đã vang lên. Thế nên, dân gian Mường mới "phong danh" cho chiêng Khầm là "nhạc trưởng" trong dàn cồng, chiêng.
Tỷ tê về chiếc chiêng Khầm, ông Thực bỗng nhớ lại: Cách nay chưa xa, ông từng chết mê chết mệt một chiếc chiêng Khầm khác. Ấy là cái đận, trong lễ hội mừng thị xã Hòa Bình được Chính phủ nâng cấp lên thành phố (năm 2006), giữa rừng âm thanh của đại ngàn cồng, chiêng gồm 500 chiếc, với cái "tai âm nhạc" diệu huyền của mình, ông Thực bỗng phát hiện ra có một chiếc chiêng có âm thanh rất lạ. Đó chính là chiếc chiêng Khầm thứ 2 mà ông Thực được "mục sở thị" trong đời - sau chiếc chiêng Khầm của gia đình mình.
Tan cuộc lễ hội tưng bừng nói trên, ông Thực ngỏ ý muốn được sở hữu chiếc chiêng Khầm, song chủ nhân của nó không nỡ bán. Thế rồi, vào một ngày nọ, ông Thực hay tin, vì bất cẩn mà chiếc chiêng Khầm ấy bị vỡ. Lỗi do chính chủ nhân của nó.
"Tiếc của giời", ông Thực ra ngẩn vào ngơ mất ăn mất ngủ đến mấy ngày.
Đâu chỉ "cổ hủ" với việc sưu tầm cồng, chiêng, ông Thực còn cùng hai người con trai mở xưởng sản xuất các vật dụng chuyên dùng trong sinh hoạt văn hóa và trong đời sống lao động thường ngày của người Mường.
Với ông, việc mở xưởng không đơn thuần chỉ là cái sự có thêm "đồng ra, đồng vào" mà sâu xa hơn, ông muốn văn hóa xứ Mường của mình ngày càng thêm có cơ hội "mưa dầm thấm lâu" vào đời sống xã hội.
5. Nhấp ngụm trà nghi ngút khói, ông Thực bảo, ông lấy làm mừng vì thấy, dẫu qua bao thăng trầm biến đổi của lịch sử, đến nay, văn hóa xứ Mường của mình vẫn là viên nam châm; là giao diện kết nối giữa truyền thống và hiện đại. "Dưng mà" mừng thì mừng thật đấy, song trong lòng vẫn thấp thỏm canh cánh một nỗi phấp phỏng khôn nguôi.
Ấy là, cánh trẻ bây giờ phải vật lộn với đồng tiền bát gạo hằng ngày, thế cho nên, nhiều đứa không còn mặn mà với những câu "thường rang - bọ mẹng"; với tiếng cồng, tiếng chiêng. Có những cháu vừa mới chập chững với câu hát; với cách đánh cồng, chiêng đã lại phải "dứt áo ra đi" để làm công nhân cho nhà máy nọ, nhà máy kia. Mà đào tạo được một cháu "biết nghề" đâu phải một sớm một chiều. Ít nhất cũng phải là 3 tháng với những cháu có năng khiếu "giời cho".
Cứ mỗi bận có 1 cháu "dứt áo đội văn nghệ ra đi", ông Thực lại phải chạy đôn chạy đáo "lùng sục" những cháu có năng khiếu để mà kèm cặp; để mà có "tài năng" lấp vào chỗ trống!
Còn một điều nữa khiến ông Thực bứt rứt, ấy cái khoản "đầu tiên" - tiền đâu để duy trì hoạt động của đội văn nghệ. Chính quyền phường cũng có hỗ trợ đấy, nhưng phần lớn vẫn là do ông và các thành viên trong đội tự xoay xỏa theo kiểu "liệu cơm gắp mắm". Đành rằng các thành viên trong đội văn nghệ đều sẵn sàng "ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng" thật đấy, nhưng cứ nghĩ đến cái việc không có tiền bồi dưỡng cho anh chị em, mình cứ thấy áy náy, day dứt thế nào!