Được biết, chương trình cơ giới hóa nông nghiệp nằm trong mục tiêu phát triển công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn đang được tỉnh tích cực thực hiện. Những năm gần đây, đa số nông dân trong tỉnh đã bước đầu làm quen với các loại máy móc phục vụ SX. Trên đồng ruộng, sự xuất hiện của máy cày, bừa, tuốt lúa... đã trở nên quen thuộc. Trong các xóm, bản xa xôi đã vang lên âm thanh đặc trưng của máy xay xát, máy tẽ ngô... Người dân nhiều nơi đã biết cầm thuần thục trên tay chiếc máy phun thuốc BVTV... Đó là những dấu hiệu sinh động cho thấy lộ trình cơ giới hóa nông nghiệp của tỉnh đã có những khởi đầu chắc chắn. Cùng với sự tham gia hữu hiệu của các loại máy móc phục vụ SX, trên địa bàn tỉnh đã đã hình thành một số vùng SXHH tập trung như vùng cây nhãn, vải ở huyện Lạc Thủy, Kim Bôi; vùng cây có múi (cam, chanh, bưởi) ở huyện Cao Phong, Kim Bôi; vùng mía nguyên liệu ở Đà Bắc, Cao Phong, Tân Lạc, Lạc Sơn, Yên Thủy; vùng chè xanh ở Lạc Thủy, Yên Thủy, Lương Sơn; vùng chè Shan tuyết ở Mai Châu, Đà Bắc, Tân Lạc...
Tuy nhiên, theo đánh giá của Sở NN&PTNT, quá trình cơ giới hóa nông nghiệp mới chỉ đạt những kết quả khiêm tốn, thể hiện ở những con số không tương xứng với nhu cầu phát triển của thực tiễn SX. Cụ thể: trong lĩnh vực trồng trọt, thống kê sơ bộ cả tỉnh mới chỉ có khoảng trên 1.200 máy làm đất nhỏ và 700 máy xay xát chế biến nông sản. Việc áp dụng thiết bị, máy móc trong lĩnh vực chăn nuôi lại càng hạn chế hơn. Con số 539 máy chế biến thức ăn thô (chủ yếu là máy nghiền thức ăn) và hơn 100 máy chế biến thức ăn thủy sản phần nào cho thấy sự manh mún. Trên địa bàn tỉnh mới chỉ có khoảng chục trang trại chăn nuôi có đầu tư hệ thống nước uống tự động, chế biến thức ăn thô... nhưng khâu giết mổ, bảo quản hầu như không có sự tham gia của máy móc. Còn trong ngành lâm nghiệp, từ khâu SX giống đến các khâu trồng rừng, khai thác, vận chuyển, sơ chế tập trung... đều chủ yếu là lao động thủ công, ít có sự trợ giúp của máy móc. Thống kê toàn tỉnh có 264 cơ sở chế biến lâm sản nhưng mức độ cơ giới hóa đang hạn chế ở mức thấp nhất, chi phối không ít đến hiệu quả SX và chế biến lâm sản. Trong nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản, hoạt động chủ yếu là các hộ gia đình nhỏ lẻ, thủ công, mức độ cơ giới hóa rất ít. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh chưa có cơ sở chế biến thủy sản, việc khai thác, đánh bắt thủy sản trên vùng lòng hồ Hòa Bình chủ yếu là thuyền nan, rất thủ công và kém hiệu quả. Ngoài ra, tỉnh cũng có các cơ sở dịch vụ cung ứng máy cơ khí nông nghiệp, sửa chữa, dịch vụ cày, gặt, tuốt, đập... song so với nhu cầu thực tế thì còn thấp. Đặc biệt, tỉnh chỉ có một số CSSX dụng cụ SX nhỏ, thô sơ như dao, rìu, liềm, hái, cuốc, xẻng..., chứ chưa có cơ sở sản xuất, chế tạo máy cơ khí nông nghiệp.
Cho rằng cần tạo được sự bứt phá để quá trình cơ giới hóa SXNN của tỉnh diễn ra mạnh mẽ hơn, ông Bùi Văn Bình, Phó Giám đốc Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân tỉnh đề cập đến sự cần thiết của “các gói kích cầu” - tức là sự vào cuộc kịp thời, thiết thực, hiệu quả của Nhà nước, chính quyền địa phương và các đơn vị chuyên ngành nhằm hỗ trợ nông dân tiếp cận tốt hơn với các loại máy móc phục vụ SXNN. Đơn cử như Đề án “Hỗ trợ lãi suất cho nông dân mua máy, thiết bị phục vụ SXNN giai đoạn 2009 - 2011” do HND tỉnh chủ trì thực hiện. Đề án được UBND tỉnh phê duyệt tại QĐ số 1735/QĐ-UBND ngày 8/8/2008. Theo đó, số lượng máy nông nghiệp dự kiến cung ứng trong 3 năm 2009 - 2011 là 1.000 máy, tổng mức đầu tư dự kiến gần 24.214 triệu đồng. Sau gần 3 năm thực hiện, toàn tỉnh đã có gần 500 máy nông nghiệp được cung ứng theo khuôn khổ thực hiện Đề án. “Tuy kết quả thực hiện chưa đảm bảo kế hoạch đề ra nhưng rõ ràng có thể coi đây là một “gói kích cầu” tạo ra sự bứt phá cần thiết, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn lộ trình cơ giới hóa nông nghiệp của tỉnh” - ông Bùi Văn Bình nhấn mạnh.