Năm 2023, nhờ có sự lãnh đạo thống nhất, quyết liệt, thường xuyên của Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sự giám sát trật chẽ của Hội đồng nhân dân tỉnh; sự chỉ đạo, điều hành linh hoạt của UBND tỉnh, các cấp, các ngành, các địa phương và sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, tham gia tích cực của các tầng lớp Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế xã hội của tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Trong tổng số 19 chỉ tiêu chủ yếu thì có 15 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch; có 04 chỉ tiêu không đạt kế hoạch. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội được quan tâm thực hiện. Văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, lao động, việc làm được chú trọng. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng được bảo đảm.
Có 04 chỉ tiêu cao hơn so với số đã báo cáo, trong đó: Có 03 chỉ tiêu cao hơn số đã báo cáo và vượt so với kế hoạch, gồm: Năng suất lao động đạt 121,78 triệu đồng/lao động, cao hơn số đã báo cáo 1,19 triệu đồng và vượt so với kế hoạch là 4,88 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,09%, giảm thêm 0,59% so với số liệu đã báo cáo và vượt kế hoạch đề ra; Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 95,8%, cao hơn số đã báo cáo 0,1%, vượt kế hoạch đề ra. Có 01 chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước đạt 5.051 tỷ đồng, cao hơn 701 tỷ đồng so với số đã báo cáo và không đạt kế hoạch.
Có 03 chỉ tiêu không đổi so với số đã báo cáo và không đạt kế hoạch, gồm: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn; GRDP bình quân đầu người; Tỷ lệ KCN đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Có 12 chỉ tiêu không đổi so với số đã báo cáo, đều đạt và vượt so với kế hoạch: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội; Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu; tỷ lệ đô thị hóa; tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội; tỷ lệ lao động qua đào tạo; Tỷ lệ số trường đạt chuẩn quốc gia; số bác sỹ và giường bệnh/1 vạn dân; tỷ lệ dân số tham gia Bảo hiểm Y tế; số xã về đích nông thôn mới; tỷ lệ dân thành thị được sử dụng nước sạch; Tỷ lệ các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý triệt để; Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn; tỷ lệ che phủ rừng.
Trong lĩnh vực kinh tế: Năm 2023 giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản theo giá so sánh ước đạt khoảng 12,99 nghìn tỷ đồng tăng 4,29% so với cùng kỳ. Giá trị thu nhập trên 1 diện tích đất canh tác trồng trọt ước đạt 180-185 triệu đồng/ha, tăng từ 25-30 triệu đồng so với năm 2022, riêng nhóm cây trồng chủ lực đạt trên 250 triệu đồng/ha. Toàn tỉnh đã khai thác 8,48 nghìn ha rừng trồng tập trung, với khối lượng 682 nghìn m3 gỗ, thấp hơn 18 nghìn m3 so với số đã báo cáo; khai thác cây phân tán được 20,28 nghìn m3 gỗ, cao hơn 3,28 nghìn m3 so với số đã báo cáo; đã trồng rừng tập trung được 8,16 nghìn (đạt 147,67%), thấp hơn 1,1 nghìn ha so với số đã báo cáo; trồng cây phân tán 942,22 cây (đạt 104%), thấp hơn 36,22 cây so với số đã báo cáo. Tổng thu nhập từ rừng của các tổ chức, hộ gia đình trên địa bàn toàn tỉnh đạt là 931,68 tỷ triệu đồng. Toàn tỉnh có 28 xã nông thôn mới nâng cao; 01 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; 63 Khu dân cư kiểu mẫu, cao hơn 3 khu so với số đã báo cáo và 179 vườn mẫu, cao hơn 5 vườn so với số đã báo cáo; có 158 sản phẩm OCOP, cao hơn 44 sản phẩm so với số đã báo cáo (gồm: 22 sản phẩm hạng 4 sao; 124 sản phẩm 3 sao và 12 sản phẩm tiềm năng 4 sao), riêng năm 2023 có thêm 47 sản phẩm được UBND cấp huyện đánh giá, phân hạng đạt từ 3 sao trở lên. Có 07 sản phẩm OCOP được xuất khẩu sang các thị trường Mỹ, Anh, EU.
Công tác quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm nông lâm thủy sản; quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và xúc tiến tiêu thụ, xuất khẩu nông sản được chú trọng. Trong năm 2023 đã hỗ trợ cho 40 cơ sở trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản được chứng nhận quy trình VietGAP, tiêu chuẩn GlobalGAP, hữu cơ và ISO. Lũy kế đến nay có 165 cơ sở đã và đang duy trì sản xuất và áp dụng quy trình VietGAP, tiêu chuẩn GlobalGAP, hữu cơ trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Hỗ trợ cho doanh nghiệp/HTX kích hoạt 191.200 tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm đưa ra thị trường, cao hơn số đã báo cáo 50 tem. Có 14 doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác đã có sản phẩm nông sản, lâm sản được xuất khẩu sang các thị trường EU, Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, cao hơn số đã báo cáo là 7 doanh nghiệp/HTX, với tổng doanh thu đạt 978,45 tỷ đồng. Tỷ lệ giá trị xuất khẩu nông sản, lâm sản năm 2023 tăng 10,01% so với năm 2022.
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp năm 2023 giảm 7,8% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn 2,8% so với số đã báo cáo. Trong đó công nghiệp khai khoáng tăng 23,9%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,32%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt... giảm 14,68%. Sản lượng điện sản xuất đạt 7.975 triệu kWh, thấp hơn 525 triệu kWh so với số đã báo cáo, giảm 15% so với cùng kỳ năm 2022.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2023 đạt 63.005 tỷ đồng, cao hơn 44.505 tỷ đồng so với số đã báo cáo, đạt 101,63% kế hoạch giao, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2023, Hòa Bình ước đón 3,8 triệu lượt khách du lịch, cao hơn 0,6 triệu lượt khách so với số đã báo cáo, tăng 21,5% so với cùng kỳ năm trước, đạt 108,6% kế hoạch năm. Trong đó: Khách quốc tế là 450 nghìn lượt, cao hơn 130 nghìn lượt so với số đã báo cáo, tăng 227,2% so với cùng kỳ năm 2022. Tổng thu từ khách du lịch là 4 nghìn tỷ đồng, cao hơn 900 tỷ đồng so với số đã báo cáo, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước.
Thu ngân sách nhà nước năm 2023 đạt 5.051 tỷ đồng, cao hơn 701 tỷ đồng so với số đã báo cáo, bằng 95% so với dự toán Thủ tướng Chính phủ giao, bằng 69% so với chỉ tiêu Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh giao, trong đó: Thu từ thuế, phí bằng 98%, thu tiền sử dụng đất bằng 43% và thu xuất nhập khẩu bằng 61% so với chỉ tiêu Nghị quyết HĐND tỉnh giao. Tổng chi NSĐP đạt 23.774 tỷ đồng, bằng 119% so với dự toán TTCP giao và bằng 108% so với Nghị quyết HĐND tỉnh, cao hơn 1.208 tỷ đồng so với số đã báo cáo.
Đến hết ngày 31/01/2024, tổng số kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 đã thực hiện giải ngân là 3.698,9 tỷ đồng, đạt 37% so với số kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ và đạt 36% Ủy ban nhân dân tỉnh đã giao chi tiết đến các dự án.
Năm 2023, có 398 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (bằng 82,5% với cùng kỳ năm trước), cao hơn 19 doanh nghiệp so với số đã báo cáo, số vốn đăng ký khoảng trên 6.346,64 tỷ đồng (bằng 58,5% với cùng kỳ năm trước); 383 doanh nghiệp giải thể, thông báo giải thể tự nguyện; 281 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động; 139 doanh nghiệp hoạt động trở lại. Tính đến đến hết năm 2023 toàn tỉnh có 4.482 doanh nghiệp, với vốn điều lệ đăng ký 88.205 tỷ đồng.
Trong năm thành lập mới 70 Hợp tác xã (HTX), vượt 75% kế hoạch và 12 tổ hợp tác (THT); giải thể 15 HTX, 12 THT, 01 Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Toàn tỉnh hiện có 758 tổ chức kinh tế tập thể (gồm: 546 HTX, 03 QTDND và 209 THT) tăng 8% so với năm 2022, trong đó có 640 tổ chức kinh tế tập thể đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh ổn định, còn 79 HTX, 39 THT ngừng hoạt động. Các tổ chức kinh tế tập thể thu hút 16,3 nghìn thành viên và 28 nghìn lao động. Doanh thu bình quân của một hợp tác xã đạt 1,52 tỷ đồng; Doanh thu bình quân của một tổ hợp tác là 210 triệu đồng; doanh thu bình quân của 01 QTDND đạt 19,1 tỷ đồng.
Có 23 dự án đầu tư vốn ngoài ngân sách được chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư và 07 dự án đầu tư được chấp thuận nhà đầu tư; có 13 dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 8.361 tỷ đồng. Lũy kế đến hết năm 2023, trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có 710 dự án đầu tư còn hiệu lực hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 245.557 tỷ đồng. Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2023 của các doanh nghiệp trong các Khu công nghiệp đạt 23.978 tỷ đồng, cao hơn 1.978 tỷ đồng so với số đã báo cáo, đạt 109% kế hoạch giao.
Tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng đạt 47.704 tỷ đồng, tăng 2.806 tỷ đồng so với số đã báo cáo, tăng 7.256 tỷ đồng (17,9%) so với cuối năm 2022. Tổng dư nợ cho vay đạt 40.061 tỷ đồng, tăng 5.710 tỷ đồng (16,6%) so với năm 2022. Nợ xấu 197 tỷ đồng chiếm 0,49%/tổng dư nợ.
Chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) năm 2023 tỉnh Hòa Bình có tổng điểm là 63,92 điểm, xếp vị trí thứ 53 cả nước, tăng 1,11 điểm và không thay đổi vị trí so với năm 2022.
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội: Năm 2023 đã giải quyết việc làm cho 19.026 lao động, cao hơn 1.026 người so với số đã báo cáo (đạt 118,91% kế hoạch năm). Tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 16.5%. Tuyển sinh đào tạo nghề nghiệp năm 2023 là 19.595 người, cao hơn 3.795 người so với số liệu đã báo cáo, đạt 126,4% so với kế hoạch giao; Tỷ lệ lao động qua đào tạo trên địa bàn tỉnh đạt 61% (tăng 0,4 so với kế hoạch giao). Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho 5.739 lao động, thấp hơn 448 lao động so với số đã báo cáo, số tiền chi trả trợ cấp thất nghiệp là 85,750 tỷ đồng.
Kết quả giảm nghèo năm 2023 đạt 3,09% so với năm 2022 (giảm từ 12,29% xuống còn 9,2%), đạt 123,6% so với kế hoạch. Trong đó, tỷ lệ hộ nghèo các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giảm 3,31% (từ 13,11 % năm 2022 giảm còn 9,80% năm 2023); tỷ lệ hộ nghèo các xã đặc biệt khó khăn giảm 6,42% (từ 27,69 % năm 2022 giảm còn 21,27% năm 2023).
Số người tham gia BHXH là 101.074 người, giảm 34.225 người so với số đã báo cáo; số người tham gia BHTN là 74.720 người, giảm 39.706 người so với số đã báo cáo; số người tham gia BHYT là 840.451 người, tăng 2.005 người so với số đã báo cáo (đạt 95,23% dân số toàn tỉnh). Chi BHXH, BHTN năm 2023 là 2.647 tỷ đồng, giảm 175 triệu đồng so với số liệu đã báo cáo; chi khám, chữa bệnh BHYT là 675 tỷ đồng, giảm 44 tỷ đồng so với số liệu đã báo cáo. Số tiền chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN đến hết ngày 31/12/2023 chiếm tỷ lệ 2,39%, giảm 0,23% so với số đã báo cáo.
Trong năm 2023 đã triển khai 90 cuộc thanh tra hành chính, tăng 14 cuộc so với số liệu đã báo cáo, trong đó đã kết thúc 79 cuộc thanh tra theo kế hoạch và hoàn thiện 13 cuộc thanh tra năm 2022 chuyển sang. Đã tổ chức tiếp 3.799 lượt công dân, cao hơn 653 lượt so với số liệu đã báo cáo, với 4.730 người đến Trụ sở tiếp dân để khiếu nại, tố cáo, đề nghị, phản ánh, cao hơn 834 người so với số liệu đã báo cáo; đã nhận, phân loại và xử lý 3.926 lượt đơn các loại.
Chỉ số CCHC năm 2023 của tỉnh xếp thứ 35/63 tỉnh, thành phố, đạt 86,76%, giảm 12 bậc so với năm 2022; một số tiêu chí, lĩnh vực CCHC chưa đạt được hoặc đạt được ở mức thấp ở năm 2022 đã được cải thiện trong năm 2023.
Về tình hình tội phạm: Trong năm xảy ra và phát hiện 778 vụ phạm pháp hình sự; khám phá, làm rõ được 717 vụ, đạt tỷ lệ 92,2%. Trong năm xảy ra 236 vụ tai nạn giao thông, cao hơn số đã báo cáo 147 vụ, làm chết 108 người, bị thương 207 người (so với cùng kỳ năm 2022 giảm 04 vụ, 33 người chết và tăng 27 người bị thương)./.