DetailController

Giáo dục

“Gieo chữ" ở vùng hồ thủy điện Hòa Bình

24/10/2012 00:00
Cậu học trò Bùi Văn Lương chốc chốc lại "bẻ lái", lướt qua các vó đánh cá khiến chiếc thuyền làm bằng xi-măng chao nghiêng, giữa đêm trăng tháng tám trên lòng hồ thủy điện Hòa Bình làm ai nấy giật mình, lo lắng. Chỉ đến khi thuyền cập bến xóm Chê (xã Tiền Phong, huyện Ðà Bắc, Hòa Bình), nghe Trưởng xóm Ðinh Văn Thi ngâm nga: "Bốn mươi chưa lấy chi già, mau mua sách vở mà ra học trường" thì mọi người mới nhẹ nhõm, tươi cười vui vẻ. Tiếng cười khi con chữ nơi lòng hồ huyện vùng cao Ðà Bắc dù vẫn "lênh đênh" nhưng đang nảy nở từng ngày.

Gian nan đường tới trường

Trên chiếc thuyền bằng xi-măng nhỏ xíu giữa trời tối đêm, theo dòng nước len qua giữa hai bên vách núi và những vó đánh cá, chúng tôi đến xóm Chê khi học sinh cũng vừa chèo thuyền về nhà. Ánh điện mập mờ hắt ra từ những ngôi nhà tuềnh toàng của "ốc đảo" vắng lặng. Khu đất xóm Chê trước đây vốn là rừng già, sau khi "vén" dân, tích nước hồ thủy điện, hơn 20 hộ tập trung sinh sống quây quần với sự giao thương duy nhất chỉ bằng đường thủy. Thu nhập chủ yếu của người dân trong xóm bằng nghề đánh cá. Cái nghề nhiều khi thức trắng đêm cất vó chỉ được dăm, bảy lạng nhưng cũng có hôm kiếm được cả tạ cá, lại gặp trời mưa, không phơi khô được đem cho lợn ăn cũng không xuể. Những khó khăn trong cuộc sống thường ngày ảnh hưởng không nhỏ đến việc học hành của các em học sinh nơi đây. Hiện nay cả xóm Chê có hơn mười học sinh tiểu học và trung học cơ sở (THCS), hằng ngày đều phải chèo thuyền mất nửa giờ đồng hồ mới đến được lớp. Gặp hôm trời mưa hoặc giông bão, chỉ còn cách nghỉ học hoặc ở lại trường vì khả năng lật thuyền là khó tránh khỏi. Học bậc trung học phổ thông (THPT) phải xuống dưới thị trấn Ðà Bắc, cách xã khoảng 40 km. Vậy là không kể chuyện lo lắng "cơm áo, gạo tiền" của phụ huynh cho con đi học, việc học sinh vùng lòng hồ xa xôi phải "thi đấu" với học sinh vùng có điều kiện "phố thị" để được vào THPT cũng khiến nhiều em nản lòng. Tư tưởng "học xong chẳng biết làm gì" vẫn còn len lỏi đâu đó trong người dân mỗi thôn bản. Vì vậy, năm học vừa qua, cả xã Tiền Phong có 42 học sinh học hết lớp 9, chỉ có tám học sinh dự thi vào THPT, trong đó có bốn em thi đỗ. Một số ít học nghề, học ở trung tâm giáo dục thường xuyên, còn chủ yếu là bỏ học theo bố mẹ làm nương, đánh cá... Rời những thôn, bản Mường ở Tiền Phong, đến với xã Ðồng Ruộng, dù không phải nơi xa trung tâm nhất nhưng lại là địa bàn được các thầy giáo, cô giáo đánh giá là nơi khó khăn nhất, nhì tỉnh. Khi chúng tôi vừa chuẩn bị rời bến trên chiếc thuyền máy của anh Trưởng bản Túp, thầy Trần Việt Hùng, Phó Hiệu trưởng Trường THCS Tiền Phong dặn với theo: "Nếu gặp cơn mưa là phải cập bờ ngay nhé. Trời mưa giữa lòng hồ không đi được đâu. Mạo hiểm lắm". Thầy Hùng vừa dứt lời, chiếc đầu máy công nông chạy dầu đã long lên sòng sọc phát ra những tiếng bành bạch khô khốc, chát chúa, khua bánh lái rời bến. Sau gần bốn tiếng đồng hồ ì ạch vượt sông nước, lách qua hàng chục bản làng ven hồ, chúng tôi cũng đến bến Sâm Hải thuộc xóm Hồm giữa một bên là xã Ðồng Ruộng của huyện Ðà Bắc và một bên là các bản làng thuộc xã Mường Tè, Quang Minh của huyện Mộc Châu (Sơn La). Con đường từ bến vào trường chỉ phù hợp với những ai thích trò chơi mạo hiểm. Sau hàng chục đoạn cua "gấp tay áo", chợt thấp thoáng lòng hồ Hòa Bình trở nên nhỏ bé hiện ra. Hóa ra, để vào được Trường THCS và tiểu học Ðồng Ruộng, phải đi vòng qua mấy ngọn núi mà chỉ ít phút trước, khi ở dưới bến nhìn lên đỉnh còn vút tầm mắt, phảng phất mây mờ. Tôi chợt nhớ lại lời thầy giáo Phạm Quốc Vinh, Phó Trưởng phòng GD và ÐT Ðà Bắc, băn khoăn khi chúng tôi muốn tìm hiểu về các điểm trường vùng khó: "Ở các điểm trường chính được kiên cố hóa nhưng ở các chi điểm lẻ cơ sở vật chất còn tạm bợ, đơn sơ lắm. Mà vào điểm bản gặp trời mưa là "đi dễ... khó về" đấy". Quả đúng như lời thầy Vinh, đến điểm trường tiểu học ở bản Nhạp, thầy giáo Lò Văn Sông, Hiệu trưởng Trường tiểu học Ðồng Ruộng cứ ao ước có được một lớp học "đúng nghĩa" cho học sinh. Ao ước ấy cũng là điều dễ hiểu vì điểm trường nằm lưng chừng dãy núi Pu Canh hùng vĩ nhìn xuống hồ thủy điện Hòa Bình, chỉ có hai phòng học, một phòng được kiên cố từ lâu, nay đã xuống cấp, hễ mưa xuống là dột ướt; còn lại một phòng được gọi là phòng cho "oai" lợp bằng lá cọ và quây chung quanh bằng tre, nứa cao hơn đầu gối, trống huếch, trống hoác. Khi trời mưa hoặc mùa đông, gió từ hồ thủy điện lại rít lên từng hồi khiến căn phòng rung lên bần bật. Ðiều đáng nói, do chỉ có hai phòng học với hai giáo viên cho nên các cô giáo đều phải dạy lớp ghép hai, ba trình độ khác nhau. Trong khi đó, điểm Trường mầm non bản Nhạp cũng không khá hơn. Nếu không được giới thiệu là lớp học và vọng tiếng bi bô của trẻ nhỏ thì khó ai có thể nhận ra, vì lớp học nằm giữa bản như chiếc nhà trệt bằng gỗ của bà con đã cũ kỹ, lợp phi-brô xi-măng

Chung tay vun ước mơ học tập

Khó khăn còn nhiều nhưng lòng người không nản. Trong bữa cơm tối với Trưởng xóm Chê, bên bếp lửa, Ông tâm sự: Nói khó khăn thì nhiều lắm nhưng nay chuyện học cũng được nhen nhóm. Sự nhen nhóm không phải từ học sinh mà ngay từ những người đã qua lâu lắm rồi cái tuổi cắp sách đến trường. Ấy là chuyện Trung tâm GDTX huyện mở lớp học bổ túc trên địa bàn xã, một số thanh niên trong xóm đã đăng ký theo học. Trong đó, cán bộ y tế thôn, bản của xóm là Bùi Văn Kiên năm nay 28 tuổi, đã có gia đình với hai con nhỏ nhưng vẫn cố gắng theo học chỉ với suy nghĩ đơn giản, "học để thêm cái chữ còn bảo được con cháu sau này" là những tín hiệu tốt cho giáo dục nơi đây.

Có lẽ mỗi người dân thôn, bản vùng lòng hồ đều nỗ lực cho việc học tập của con em mình nhưng thế thôi là chưa đủ. Ðiều quan trọng còn là sự nỗ lực không ngừng của mỗi thầy giáo, cô giáo đang từng ngày, từng giờ chăm chút cho các thế hệ tương lai từng nét chữ, từng bài toán để học tập nên người. Tại điểm trường bản Nhạp, khó ai có thể hình dung lớp học được bố trí theo "chuẩn" nào. Trong một phòng học là lớp ghép ba trình độ gồm lớp 1, lớp 2 và lớp 3 với 14 học sinh được bố trí ngồi học quay theo ba hướng bảng khác nhau. Vậy là cứ mỗi giờ lên lớp, cô giáo Lường Thị Huyến lại phải xoay vần hết góc nọ đến bảng kia. 18 năm gắn bó với điểm bản và cũng ngần ấy năm cô Huyến luôn dạy lớp ghép ba trình độ. Ðể dạy lớp ghép hiệu quả, cô giáo luôn phải quản lý, phân bổ thời gian giảng dạy phù hợp, khi lớp này thảo luận, làm bài tập thì lớp kia nghe giảng.

Từ những phòng học đơn sơ, lớp học ghép nơi bản làng heo hút đã có những học sinh phấn đấu vươn lên học tốt. Tin cô học trò xóm Nhạp Ngoài Bùi Hồng Hạnh thi đỗ Trường đại học Luật Hà Nội năm 2012 làm nức lòng cả xã Ðồng Ruộng. Nức lòng bởi dù hoàn cảnh gia đình quá khó khăn nhưng mấy chị em Hạnh đều chăm ngoan, học giỏi. Tiếp chúng tôi trong ngôi nhà sàn xây trệt, đơn sơ nhưng khá sạch sẽ, ngăn nắp, anh Bùi Văn Sự, bố Hạnh ngậm ngùi nói: Cả nhà chỉ trông chờ vào nương sắn trồng ở sườn núi bên kia hồ đến cuối năm mới cho thu hoạch, cho nên việc nộp tiền học cho con anh, chị cứ phải chạy đôn, chạy đáo, "giật chỗ nọ, lấp chỗ kia". Người đàn ông có nước da đen sạm, trải đầy sương gió, tháng ngày cặm cụi với nương sắn chỉ mong sao các con học tập nên người. Ðến nay, mong ước đó đã phần nào được đền đáp vì ngoài cô con gái thứ hai vừa đỗ đại học, con gái út đang học lớp 12 luôn được loại khá, giỏi thì con gái cả Bùi Thúy Sinh cũng đang học ở Trường cao đẳng Sư phạm Hòa Bình sắp ra trường với mong muốn đem cái chữ gieo nơi bản làng quê hương.

Có thể nói, mỗi lần đi, mỗi điểm đến đều cho chúng tôi những xúc cảm khác nhau về cuộc sống, về con chữ nơi vùng cao. Và vẫn còn nhiều lắm những câu chuyện, những tấm gương, những giải pháp hay trong dạy và học nơi lòng hồ của Ðà Bắc khó lòng kể hết. Rời bản Nhạp khi trời còn phảng phất mây mù sáng sớm nhưng lòng chợt thấy niềm vui lan tỏa, xua đi những khó khăn trên con đường dốc núi chênh vênh, gấp khúc quanh co. Không vui sao được khi Phó Trưởng phòng GD và ÐT Phạm Quốc Vinh, người có gần 35 năm gắn bó với giáo dục bản làng Ðà Bắc cho hay, với hơn 80% số dân là người dân tộc thiểu số, với 11 trong số 20 xã, thị trấn thuộc vùng ven hồ thủy điện có nhiều khó khăn, nhưng khoảng cách chất lượng giáo dục giữa vùng cao, khó khăn và vùng thuận lợi trong huyện đang dần được rút ngắn. Những trường vùng sâu, vùng xa của huyện cũng đã có nhiều học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Ðáng chú ý, đội ngũ cán bộ, giáo viên sau khi huyện thực hiện công tác luân chuyển, điều động đã hỗ trợ vùng khó bảo đảm chất lượng tốt với tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn đạt cao, thúc đẩy giáo dục nơi đây vươn lên từng ngày.