
Trong những năm qua, tỉnh Hòa Bình đã huy động hàng trăm tỷ đồng từ các nguồn vốn để xây dựng nhiều loại hình cấp nước sinh hoạt từ hệ thống nước tự chảy, bể nước mưa đến xây dựng các công trình nước sinh hoạt hợp vệ sinh tại nhiều vùng nông thôn trên địa bàn nhằm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn. Riêng trong năm 2012, tỉnh đã huy động với tổng nguồn vốn hơn 308 tỷ đồng để xây dựng, tu sửa các công trình nước hợp vệ sinh. Đến nay, tỷ lệ người dân nông thôn trên địa bàn tỉnh được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh đạt khoảng 76%, trong đó nguồn nước bảo đảm theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế là 38%. Không thể phủ nhận những hiệu quả mà nhiều công trình nước hợp vệ sinh ở các vùng nông thôn trên địa bàn mang lại, góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển, làm thay đổi bộ mặt các vùng nông thôn, nâng cao chất lượng sống cho nhân dân, nhất là các xã thuộc vùng sâu, xã, đặc biệt khó khăn. Nhưng bên cạnh đó thì cũng còn có nhiều công trình xây xong được thời gian ngắn đã có nguy cơ “khai tử”, gây bức xúc cho người dân. Qua thực tế tại một số địa phương, chúng tôi thấy có những nơi tỷ lệ người dân được sử dụng nước hợp vệ sinh thấp hơn nhiều so với thiết kế của các công trình cấp nước sinh hoạt đã đưa vào hoạt động. Hay nhiều công trình chỉ hoạt động được một thời gian thì các thiết bị hư hỏng, xuống cấp không có tiền tu sửa nên không hoạt động hết công suất. Đặc biệt có những công trình chỉ hoạt động được vài ba tháng hoặc vài năm rồi ngừng hoạt động hẳn để phơi mưa, phơi nắng.
Những tưởng sau bao năm phải dùng nước giếng khoan để sinh hoạt hàng ngày đối với người dân trên địa bàn thị trấn Đà Bắc huyện Đà Bắc sẽ chấm dứt khi năm 2007 một công trình cấp nước tập trung đã hoàn thành với kinh phí hơn bảy tỷ đồng. Thời điểm đó, người dân tại thị trấn Đà Bắc đã sẵn sàng bỏ tiền túi ra mua ống nước, van khóa, khóa với số tiền hàng triệu đồng. Và niềm vui đó như được nhân đôi khi công trình cấp nước sinh hoạt này đi vào chạy thử, nguồn nước trong vắt. Tuy nhiên, niềm vui ngắn chẳng tày gang, sau ba tháng hoạt động, nước hút từ giếng lên đen ngòm như nước bùn, không thể dùng được nên...công trình cũng đã chết theo từ đó cho đến nay, lãng phí tiền của Nhà nước. Hiện nay, chỗ công trình nước này luôn luôn khóa kín cửa, thiết bị hư hỏng, phần đất xung quanh được người dân tận dụng để trồng ngô. Theo tìm hiểu của chúng tôi, dự án cấp nước tập trung cho thị trấn Đà Bắc là dự án được đầu tư bằng nguồn vốn chuyển dân vùng lòng hồ sông Đà do UBND huyện làm chủ đầu tư. Quá trình triển khai thực hiện, trạm cấp nước đầu tư với một trạm bơm, giếng khoan, trạm điều hành nước, hệ thống đường ống...nhưng do địa hình phức tạp, khoan thăm dò không chính xác và trữ lượng nước tại đó không lớn. Vì vậy, trạm cấp nước chỉ đi vào hoạt động được ba tháng thì ngừng hoạt động do sập giếng khoan. Trao đổi với chúng tôi, Chủ tịch UBND thị trấn Đà Bắc Nguyễn Huy Sướng chia sẻ, bao nhiêu mong đợi, mòn mỏi của người dân về một công trình nước hợp vệ sinh sẽ làm thay đổi đời sống nhân dân trên địa bàn vừa léo lên lại vụt tắt. Hiện nay, thị trấn Đà Bắc có khoảng 5.300 nhân khẩu thì hầu như không có hộ nào có nước sinh hoạt hợp vệ sinh sử dụng. Thậm chí nước giếng khoan, vào mùa khô nhiều gia đình cũng phải đi mua với giá 25.000 đồng/m3 do không có tiền để khoan giếng hoặc thửa đất của nhà mình không có mạch nước ngầm.
Cũng từ nguồn vốn chuyển dân vùng lòng hồ sông Đà từ năm 1994 tính đến nay, Nhà nước đã đầu tư xây dựng cho người dân vùng Thung Rếch xã Tú Sơn huyện Kim Bôi ba hệ thống công trình nước hợp vệ sinh với một số bể chứa có dung tích lớn. Theo thiết kế, các công trình này sẽ đáp ứng nhu cầu nước vào mùa khô cho khoảng hơn 80% hộ dân ở đây nếu hoạt động hết công suất. Trong đó, xóm Kim Bắc I xã Tú Sơn được đầu tư xây dựng hai hệ thống bể nước sinh hoạt với bốn bể trong đó có hai bể với dung tích 20m3 và hai bể được xây dựng với dung tích 60m3. Điều đáng nói là chỉ qua một thời gian đưa vào sử dụng đến nay chỉ còn duy nhất một bể hoạt động được. Nhưng lượng nước về bể cũng rất kém, chắc chỉ đủ phục vụ cho một số hộ dân. Bên cạnh đó, hai bể nước với dung tích 60m3 thì đã từ lâu không còn tác dụng trữ nước. Hiện nay, các bể chứa bị hư hỏng, không được sửa chữa nên đã xuống cấp. Vì vậy dẫn đến một nghịch lý người dân thiếu nước sinh hoạt ngay cạnh công trình nước. Theo lãnh đạo xã Tú Sơn thì nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là quá trình thi công xây dựng, nhà thầu làm ẩu nên chất lượng kém. Do đó khi đưa vào sử dụng một thời gian ngắn hệ thống bể đã xuống cấp, bị nứt vỡ, rò rỉ nước. Mặc dù đơn vị thi công đã khắc phục, sửa chữa nhưng tình trạng rò rỉ nước vẫn không được dứt điểm nên bị thấm, nứt không giữ được nước; hệ thống ống dẫn, van cũng kém chất lượng. Thiếu nước, vậy nên các hộ dân trong vùng phải nguồn nước giếng khoan. Nhưng nguồn nước giếng khoan cũng ít nên hàng ngày các hộ đến xin nhau về dùng trong sinh hoạt, còn chuyện tắm rửa thì phải hạn chế đến mức tối đa. Ngoài hai công trình trên, thì trên địa bàn tỉnh còn có nhiều công trình ở các huyện Yên Thủy, Cao Phong, Lương Sơn, Đà Bắc, Kim Bôi...cũng đã và đang không phát huy được hiệu quả sau đầu tư.
Theo thống kê, hầu hết các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn trên địa bàn tỉnh Hòa Bình sau khi được đầu tư xây dựng đều bàn giao cho chính quyền địa phương mà trực tiếp là UBND xã vận hành, khai thác và quản lý. Có những nới các công trình cấp nước sinh hoạt tại thành phố, thị trấn được giao cho công ty TNHH MTV cấp thoát nước Hòa Bình quản lý, khai thác và sử dụng. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế cho thấy công tác quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sinh hoạt ở nông thôn trên địa bàn tỉnh còn kém hiệu quả, cá biệt có một số công trình xuống cấp nghiêm trọng, không phát huy hiệu quả, công tác bảo trì công trình hầu như chưa được quan tâm, cơ chế giá nước sạch nông thôn thu không đủ bù chi. Ông Quách Tự Hải, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hòa Bình cho biết, nguyên nhân dẫn đến tình trạng một số công trình nước hợp vệ sinh trên địa bàn đã và đang không phát huy hiệu quả hoặc “đắp chiếu” sớm là do ý thức của người dân trong việc bảo vệ, bảo quản công trình, đường ống nước chưa cao. Chính quyền cấp xã sau khi được giao tiếp nhận, quản lý khai thác vận hành công trình còn chưa quan tâm sâu sát. Trong khi đó, nguồn vốn cho duy tu, bảo dưỡng thường xuyên không có dẫn đến các công trình bị xuống cấp hoặc hư hỏng hoàn toàn chỉ sau một thời gian sử dụng. Bên cạnh đó cũng còn có một số yếu tố khác như trên địa bàn các công trình nước sinh hoạt hợp vệ sinh chủ yếu là các công trình nước tự chảy nên khi xảy ra biến đổi khí hậu, nguồn nước cạn kiệt cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của các công trình.
Hơn nữa, trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, chỉ có một số ít công trình được thiết kế là xây dựng đầu mối, khu xử lý và lắp đặt tuyến ống các trục chính, phần còn lại nhân dân đóng góp mua đồng hồ để dẫn nước về nhà sử dụng. Đa phần các công trình còn lại là sử dụng các bể chứa nước tập trung cấp nước cho mấy cụm dân cư, dẫn đến tình trạng "cha chung không ai khóc". Khi đó, không có tiền duy tu, sửa chữa nên theo thời gian công trình cũng hỏng luôn, hoặc mất trộm các thiết bị không thể hoạt động được. Cũng theo ông Hải, để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ chỉ đạo nhà thầu và chủ đầu tư phải khảo sát thiết kế kỹ lượng các dự án xây dựng công trình nước hợp vệ sinh trước khi xây dựng; không xây dựng các bể tập trung mà phải lắp đặt các đường ống đến từng hộ dân và lắp các đồng hồ để đo đếm nước nhằm nâng cao ý thức của người dân cũng như đóng góp một phần kinh phí cho việc duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng, thuê công nhân vận hành, quản lý máy tại công trình. Tuy nhiên, phần kinh phí này là do địa phương tự xây dựng nhằm phù hợp với hoàn cảnh, tính chất từng vùng...