Thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TU ngày 03/10/2017 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển vùng động lực tỉnh Hòa Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 17), tỉnh đã tập trung nguồn lực, đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở, phát triển khu, cụm công nghiệp, doanh nghiệp, tăng cường ứng dụng khoa học – kỹ thuật, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…để vùng động lực có bước đệm vững chắc và tăng tốc nhanh, kéo kinh tế các vùng lân cận đi lên.
Thời gian qua, bên cạnh việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân sách Nhà nước, tỉnh đã tập trung huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp, người dân, các tổ chức trong và ngoài nước để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của vùng động lực. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội của vùng trong 5 năm 2018-2022 ước đạt 60.095 tỷ đồng, so với toàn tỉnh tổng vốn đầu tư toàn xã hội của vùng bằng khoảng 69%, trong đó vốn đầu tư của khu vực nhà nước bằng khoảng 44,5%, vốn đầu tư của doanh nghiệp bằng khoảng 79,3%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng khoảng 99%. Quá trình phân bổ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đã thực hiện quan điểm là ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng cho vùng động lực, tỷ lệ vốn đầu tư của doanh nghiệp dân doanh và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng chiếm tỷ rất lớn so với toàn tỉnh, qua đó hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của vùng từng bước được xây dựng đồng bộ phù hợp với yêu cầu phát triển của tỉnh nói chung và vị trí, vai trò của vùng động lực nói riêng.
Nhiều công trình giao thông quan trọng đã và đang được đầu tư cải tạo nâng cấp như đường Hòa Lạc - thành phố Hòa Bình và cải tạo nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Xuân Mai - Hòa Bình theo hình thức hợp đồng BOT, đường tỉnh 435, 445, 438B, đường nối từ Quốc lộ 6 đến đường Chi Lăng thành phố Hòa Bình, cầu Hòa Bình 3, cầu Hòa Bình 2, cầu Trắng, thành phố Hòa Bình.... Thực hiện chuẩn bị đầu tư và triển khai thực hiện đối với một số dự án công trình giao thông trọng điểm như Đường nối từ đường Trần Hưng Đạo đến xã Dân Chủ kết nối QL 6; Đầu tư, xây dựng đường cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu (Đoạn từ Km19 đến Km53, trên địa bàn tỉnh Hòa Bình) bằng nguồn đầu tư công có hỗ trợ từ ngân sách Trung ương; Dự án đầu tư mở rộng đường cao tốc Hòa Lạc - Hòa Bình theo hình thức PPP có hỗ trợ từ ngân sách Trung ương; đường liên kết vùng Hòa Bình – Hà Nội và cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu; Đường kết nối thị trấn Lương Sơn-Xuân Mai Hà Nội (giai đoạn 1); Đường Quang Tiến - Thịnh Minh, thành phố Hòa Bình (giai đoạn 1);... Ngoài ra nhiều tuyến đường thuộc các huyện như đường từ ngã ba Đông Dương, thị trấn Lương Sơn đi xã Cư Yên, đường nội thị thị trấn Lương Sơn, Đường tránh Thanh nông - Thanh Hà đi đường Hồ chí Minh, đường Hoàng Hoa Thám, đường Lý Thường Kiệt, đường Lê Thánh Tông, đường QH7, QH8, thành phố Hòa Bình... và giao thông nông thôn cũng đã được đầu tư, nâng cấp. Tiếp tục chú trọng công tác duy tu, bảo dưỡng hạ tầng giao thông, đồng thời đẩy mạnh phong trào phát triển giao thông gắn với xây dựng nông thôn mới, góp phần cải thiện chất lượng giao thông. Đến nay, trên địa bàn vùng động lực có 2.555,88 km đường bộ, trong đó thành phố Hòa Bình có 742,65 Km; huyện Lương Sơn có 832,76 Km và huyện Lạc Thủy có 980,47 Km. Trên địa bàn vùng có 02 tuyến sông khai thác vận tải thủy nội địa, trong đó tuyến đường thủy nội địa quốc gia sông Đà dài 103 km; tuyến đường thủy nội địa địa phương sông Bôi dài 19 km.
Hạ tầng cung cấp điện hàng năm đều được đầu tư nâng cấp. Đến nay, hệ thống lưới điện trên địa bàn vùng động lực có 2.186,91 Km đường dây cao, trung và hạ áp và 1.154 trạm biến áp với tổng dung lượng 1.806,782 MVA. Hệ thống lưới điện quốc gia đã cấp điện cho 100% số xã, phường, thị trấn trong vùng; tỷ lệ số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia năm 2022 ước đạt 100%.
Tỉnh đã thực hiện nâng cấp và sửa chữa nhiều công trình đầu mối, kiên cố hoá kênh mương, góp phần quan trọng cho việc tưới tiêu. Đến nay, vùng động lực 847,1 km kênh mương tưới các loại, đã kiên cố hóa được 541,5 km, đạt 63,92%, cao hơn 13,92% so với trung bình của tỉnh; có 325 công trình và hệ thống công trình thủy lợi, tăng 49 công trình so với năm 2017, các công trình được đầu tư xây dựng kiên cố và bán kiên cố từ nhiều nguồn vốn, đã và đang hoạt động phục vụ sản xuất. Đã triển khai xây dựng một số hồ, đập có dung tích lớn như hồ Ngành, hồ Tiên Hội, đập Đăng Phú, huyện Lương Sơn,... vừa phục vụ tưới tiêu vừa cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng. Hàng năm tỉnh cũng đã chủ động bố trí vốn tu bổ, nâng cấp, mở rộng các công trình đê điều trọng yếu trong vùng, có nguy cơ tiềm ẩn nên đã hạn chế được thiệt hại do bão lũ gây ra.
Tổng số công trình hạ tầng cung cấp nước hợp vệ sinh cho dân nông thôn tại vùng động lực là 52 công trình. Đến hết năm 2021, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh của huyện Lạc Thủy là 97,3%, huyện Lương Sơn là 99,3% và thành phố Hòa Bình là 96,6%. Đối với hạ tầng cung cấp nước sạch cho dân đô thị, từ năm 2016, nhà máy nước Vinaconex đã triển khai đầu tư nâng công suất từ 300.000 m3/ngày đêm, lên 600.000 m3/ngày đêm; Công ty cổ phần nước sạch Hòa Bình có mạng lưới đường ống dài 98 km với 15 trạm cung cấp nước sạch, tổng công suất 36.660m3/ngày đêm, đang đầu tư mở rộng mạng lưới cấp nước sạch cho các xã thuộc địa bàn thành phố Hòa Bình và thị trấn huyện Lương Sơn. Ngoài ra Đã đầu tư xây dựng Nhà máy nước sạch Lương Sơn bằng nguồn vốn ODA của Hàn Quốc với công suất 5.000 m3/ngày đêm đáp ứng nhu cầu dùng nước sạch của thị trấn Lương Sơn và các xã vùng trung tâm huyện.
Hạ tầng công nghệ thông tin từng bước được đầu tư hoàn chỉnh; hạ tầng viễn thông phát triển nhanh. Mạng truyền dẫn đến các địa phương trong vùng đã được cáp quang hóa, trong đó 100% các cơ quan, ban, ngành và các xã, thị trấn có mạng cáp quang. Tỷ lệ số xã, thị trấn có trạm thông tin di động BTS đạt 100%; 100% xã, thị trấn có dịch vụ điện thoại; 100% số xã thu được sóng phát thanh, truyền hình trung ương và địa phương./.